Chức năng của vùng lưng dưới hoặc vùng thắt lưng, bao gồm hỗ trợ cấu trúc cơ thể, vận động và bảo vệ một số cơ quan bên trong.
Đau thắt lưng hay đau lưng dưới có thể là kết quả của các tình trạng ảnh hưởng đến xương cột sống thắt lưng, đĩa đệm giữa các đốt sống, dây chằng quanh cột sống, tủy sống, dây thần kinh, cơ thắt lưng, cơ quan nội tạng vùng chậu và bụng, và có thể là da bao phủ vùng thắt lưng.
Điều trị đau thắt lưng tối ưu hướng đến một nguyên nhân cụ thể được chẩn đoán hoặc nghi ngờ. Đối với đau lưng cấp tính do căng cơ vùng thắt lưng, sử dụng một biện pháp khắc phục ban đầu tại nhà có thể đem lại hiệu quả cao.
Xem thêm: Đau lưng: Nguyên nhân, chẩn đoán và những phương pháp trị đau lưng
Mục lục
- Giải phẫu của vùng thắt lưng
- Chức năng của vùng thắt lưng (lưng dưới)
- Nguyên nhân phổ biến của đau vùng thắt lưng là gì?
- Nguyên nhân xương lấn chiếm gây đau lưng dưới
- Nguyên nhân từ xương khớp gây ra đau lưng dưới
- Các nguyên nhân khác của đau lưng dưới là gì?
- Nguyên nhân không phổ biến của đau thắt lưng là gì?
- Các triệu chứng và dấu hiệu khác liên quan đến đau lưng dưới là gì?
- Làm thế nào để các bác sĩ chẩn đoán đau lưng dưới?
- Điều trị đau vùng thắt lưng
- Biện pháp khắc phục tại nhà cho đau thắt lưng
- Có thể ngăn ngừa đau thắt lưng không?
Giải phẫu của vùng thắt lưng
Để hiểu các nguyên nhân khác nhau của đau vùng thắt lưng, điều quan trọng là phải hiểu được cấu trúc bình thường (giải phẫu) của các cơ quan của khu vực này trên cơ thể. Các cấu trúc quan trọng của vùng thắt lưng có thể liên quan đến các triệu chứng ở vùng này bao gồm xương cột sống thắt lưng (đốt sống), đĩa đệm giữa các đốt sống, dây chằng quanh cột sống, tủy sống và dây thần kinh, cơ thắt lưng, các cơ quan nội tạng của vùng chậu và bụng, và da bao phủ vùng thắt lưng.
Cột sống thắt lưng xương được thiết kế sao cho các đốt sống “xếp chồng lên nhau” có thể tạo ra một cấu trúc hỗ trợ chuyển động trong khi cũng bảo vệ tủy sống khỏi chấn thương. Tủy sống bao gồm các mô thần kinh kéo dài xuống cột sống từ não. Mỗi đốt sống có một cấu trúc vững chắc, tạo thành một ống sống, một khoang bao quanh và bảo vệ tủy sống. So với các vùng cột sống khác, thì thân đốt sống ở vùng thắt lưng rất to, chiều ngang rộng hơn chiều trước sau. Ở 3 đốt sống cuối có chiều cao ở phía sau thấp hơn phía trước nên trông giống như một cái chêm. Các cuống sống to, khuyết trên của chân cung rộng. Ở phía dưới thì sâu hơn. Phần mỏm ngang hẹp và dài, mỏm gai rộng, dày và thô, có hình chữ nhật nối thẳng ra sau.
Mặt khớp của mỏm khớp nhìn vào trong và về sau, mặt khớp dưới có tư thế ngược lại.Các đốt sống có cấu trúc hợp lý để cung cấp chức năng phù hợp cho việc mang tất cả trọng lượng của các bộ phận phía trên mông. Có 33 đốt sống ở cột sống thắt lưng, kết thúc là 4 đốt sống cụt.
Các đĩa đệm là miếng đệm đóng vai trò là “đệm” giữa các thân đốt sống riêng lẻ. Chúng giúp giảm thiểu tác động của lực tác động lên cột sống. Mỗi đĩa đệm được thiết kế giống như một chiếc bánh rán với thành phần trung tâm mềm hơn (nhân nhầy) và một vòng ngoài chắc chắn xung quanh (vòng sợi). Phần trung tâm của đĩa đệm có khả năng vỡ (thoát vị như thoát vị đĩa đệm ) qua vòng ngoài, gây kích thích mô thần kinh lân cận và đau thần kinh tọa. Dây chằng là các mô sợi. Dây chằng gắn từng đốt sống với nhau và bao quanh mỗi đĩa đệm. Tác dụng của dây chằng này là ngăn cản sự ưỡn quá mức của cột sống, ngăn cản cột sống gấp quá mức và thoát vị đĩa đệm ra sau.
Các dây thần kinh cung cấp cảm giác và kích thích các cơ bắp ở vùng thắt lưng cũng như các chi dưới (đùi, chân, bàn chân và ngón chân) đi ra khỏi cột sống thắt lưng thông qua các thân đốt sống. Hai bên khoang tủy sống gồm rễ vận động và rễ cảm giác. Hai rễ này nhập lại thành dây thần kinh sống rồi chui qua lỗ ghép ra ngoài.
Nhiều nhóm cơ chịu trách nhiệm uốn, gập, xoay, cũng như di chuyển các chi dưới, đều liên quan tới vùng thắt lưng.
Động mạch chủ và các mạch máu vận chuyển máu đến và đi từ các chi dưới đi qua trước cột sống thắt lưng ở bụng và xương chậu. Bao quanh các mạch máu này là các hạch bạch huyết (tuyến bạch huyết) và các mô của hệ thống thần kinh rất quan trọng trong việc duy trì kiểm soát bàng quang và ruột.
Tử cung và buồng trứng là những cấu trúc quan trọng ở phía trước vùng xương chậu của phụ nữ. Tương tự ở nam giới là tuyến tiền liệt. Thận nằm ở hai bên xương cột sống, bệnh lý về thận cũng có thể ảnh hưởng tới vùng thắt lưng.
Da trên vùng thắt lưng chi phối bởi các dây thần kinh đến từ rễ thần kinh thoát ra từ cột sống thắt lưng.
Chức năng của vùng thắt lưng (lưng dưới)
Vùng lưng phía dưới, hoặc vùng thắt lưng, có một số chức năng quan trọng đối với cơ thể con người. Những chức năng này bao gồm hỗ trợ cấu trúc cơ thể, di chuyển và bảo vệ một số cơ quan.
Khi chúng ta đứng, vùng thắt lưng hoạt động để hỗ trợ trọng lượng của phần trên cơ thể. Khi chúng ta cúi hoặc ưỡn người, hoặc xoay ở thắt lưng, vùng thắt lưng có liên quan đến chuyển động. Do đó, chấn thương đối với các cấu trúc quan trọng đối với việc mang trọng lượng, chẳng hạn như xương cột sống, cơ, gân và dây chằng, thường có thể được phát hiện khi cơ thể đứng thẳng hoặc trong các cử động khác nhau.
Bảo vệ các mô mềm của hệ thần kinh và tủy sống cũng như các cơ quan lân cận của xương chậu và bụng là một chức năng quan trọng của cột sống thắt lưng và các cơ lân cận của vùng lưng phía dưới..
Nguyên nhân phổ biến của đau vùng thắt lưng là gì?
Các nguyên nhân phổ biến của đau thắt lưng bao gồm căng cơ thắt lưng, kích thích dây thần kinh, bệnh lý thần kinh tọa và các bệnh lý của xương và khớp. Một số bệnh lý sẽ được trình bày dưới đây.
Căng cơ thắt lưng (cấp tính, mãn tính)
Căng cơ thắt lưng là chấn thương kéo giãn dây chằng, gân và / hoặc cơ của vùng thắt lưng. Các bộ phận này có thể bị kéo giãn quá mức hoặc rách. Căng cơ thắt lưng được coi là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của đau thắt lưng.
Nguyên nhân gây ra căng cơ thắt lưng bao gồm:
- Ít vận động
- Béo phì
- Căng thẳng
- Chấn thương hay té ngã
- Chơi thể thao mà không kéo duỗi cơ hoặc khởi động trước có thể dẫn đến căng cơ thắt lưng
- Các hoạt động làm mỏi thắt lưng, chẳng hạn như: duỗi, gập người, nâng vật nặng không đúng cách, kéo nhiều (cử tạ), hoặc xoắn vặn người (bóng rổ, bóng chày, gôn).
Chấn thương mô mềm thường được phân loại là “cấp tính” nếu nó đã xuất hiện từ vài ngày đến vài tuần. Nếu tình trạng kéo dài hơn ba tháng, nó được gọi là “mãn tính”. Căng cơ thắt lưng thường xảy ra ở những người ở độ tuổi 40, nhưng nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Các triệu chứng bao gồm đau đột ngột ở thắt lưng và nặng lên khi hoạt động (uốn, duỗi, ho, hắt hơi). Các triệu chứng khác là đau và cứng lưng, co thắt thắt lưng, đau mông và chân.
Mức độ nghiêm trọng của chấn thương dao động từ nhẹ đến nặng, tùy thuộc vào mức độ căng thẳng và dẫn đến co thắt cơ của vùng thắt lưng. Chẩn đoán căng cơ thắt lưng dựa trên tiền sử chấn thương, vị trí đau và loại trừ chấn thương hệ thần kinh. Thông thường, chụp X-quang có thể loại trừ nguyên nhân từ xương cột sống. Chẩn đoán được thực hiện dựa trên bệnh sử, khám thực thể và có thể dùng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) có thể được thực hiện trong trường hợp đặc biệt nếu cần có hình ảnh rõ ràng hơn về xương, dây thần kinh hoặc đĩa đệm. Trong các trường hợp cần thiết, phương pháp điện cơ ký (EMG) sẽ được thực hiện để chẩn đoán các vấn đề về cơ bắp được chính xác hơn.
Điều trị căng cơ thắt lưng bao gồm: nghỉ ngơi, chườm đá, chườm nóng, thuốc men và các bài tập thể dục. Bệnh nhân nên nghỉ ngơi trong một hoặc hai ngày, sau đó bắt đầu lại từ các hoạt động thể chất nhẹ. Chườm đá trong 2-3 ngày đầu tiên để hết sưng. Tắm hoặc ngâm trong bồn nước nóng có thể hữu ích, và cuối cùng (sau khi tình trạng cấp tính giải quyết) các bài tập phục hồi để tăng cường cơ lưng và cơ bụng. Điều trị ban đầu tại nhà có thể bao gồm nghỉ ngơi, chườm, dùng thuốc acetaminophen ( Tylenol ) hoặc ibuprofen ( Advil , Motrin ), và tránh nâng vật nặng. Thuốc kê đơn đôi khi được sử dụng cho đau thắt lưng cấp tính bao gồm thuốc chống viêm không steroid, chẳng hạn như sulindac ( Clinoril), Naproxen (Naprosyn), và ketorolac ( TORADOL ) bằng cách tiêm hoặc uống, giãn cơ, chẳng hạn như carisoprodol ( Soma ), cyclobenzaprin ( Flexeril ), methocarbamol (Robaxin) và metaxalone ( Skelaxin ), cũng như các thuốc giảm đau, chẳng hạn như tramadol ( Ultram ).
Không khuyến khích người bệnh nằm trên giường quá lâu, vì điều này thực sự có thể làm chậm phục hồi. Vật lý trị liệu và các bài tập thể dục có thể giúp tăng cường cơ bắp ở vùng bụng, kéo duỗi và tăng cường sức cơ thắt lưng trong và sau khi lành bệnh. Chấn thương trong tương lai có thể tránh được bằng cách sử dụng các kỹ thuật bảo vệ lưng trong các hoạt động và thiết bị hỗ trợ khi cần thiết ở nhà hoặc nơi làm việc. Sử dụng tư thế đúng khi ngồi, đứng, hoặc nâng vật. Khi nhấc vật nặng lên, hãy gập đầu gối lại.
Kích thích thần kinh và đau thần kinh tọa
Kích thích thần kinh
Các dây thần kinh của cột sống thắt lưng có thể bị kích thích bởi áp lực cơ học (sự va chạm) bởi xương hoặc các mô khác, hoặc từ bệnh tật, bất cứ nơi nào dọc theo đường đi của chúng – từ rễ thần kinh ở tủy sống đến bề mặt da. Những tình trạng này bao gồm đau thần kinh tọa, thoái hóa xương và viêm dây thần kinh do nhiễm virus ( bệnh zona ).
Đau thần kinh tọa
Đau thần kinh tọa là kích thích thần kinh được gây ra bởi sự tổn thương của các đĩa đệm giữa các đốt sống. Tổn thương đĩa đệm xảy ra do thoái hóa (“hao mòn”) của vòng ngoài của đĩa đệm, chấn thương hoặc do cả hai. Do đó, phần mềm trung tâm của đĩa đệm có thể vỡ (thoát vị) thông qua vòng ngoài của đĩa đệm và tiếp giáp với tủy sống hoặc dây thần kinh của nó khi chúng thoát khỏi xương cột sống. Điều này là nguyên nhân gây ra ” đau thần kinh tọa ” thường được ghi nhận do dây thần kinh tọa bị tổn thương hoặc chèn ép. Nếu dây thần kinh hông bị chèn ép hoặc tổn thương nó có thể gây đau ở vùng lưng dưới, lan tới hông, mông và chân kèm theo cảm giác tê và ngứa ran. Cơn đau thường tăng lên khi cử động ở thắt lưng và có thể tăng khi ho hoặc hắt hơi. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, đau thần kinh tọa có thể đi kèm với rối loạn không tự chủ của bàng quang và / hoặc ruột. Bệnh đau thần kinh tọa vùng thắt lưng thường chỉ ảnh hưởng đến một bên của cơ thể là bên trái hoặc bên phải.
Đau dây thần kinh tọa rất thường gặp, trường hợp đau nhẹ người bệnh vẫn đi lại, làm việc bình thường. Nếu đi lại nhiều, đứng nhiều, ngồi nhiều trong một ngày, đau có thể tái phát. Nếu đau nhiều thì khi chân dậm mạnh xuống đất, ho mạnh, hắt hơi, đi đại tiện rặn cũng đau. Đau nặng ảnh hưởng nhiều đến khả năng lao động.
Ngoài triệu chứng trên, một số xét nghiệm có thể hỗ trợ chẩn đoán và điều trị. Xét nghiệm đo điện cơ và tốc độ dẫn truyền thần kinh của chi dưới có thể được sử dụng để phát hiện kích thích thần kinh. Thoát vị đĩa đệm thực tế có thể được phát hiện bằng các hình ảnh, chẳng hạn như CT hoặc MRI.
Điều trị bệnh lý đau thần kinh tọa bao gồm nội khoa và phẫu thuật. Nội khoa bao gồm giáo dục bệnh nhân, thuốc giảm đau và co thắt cơ, tiêm cortisone quanh tủy sống (tiêm ngoài màng cứng), vật lý trị liệu (nhiệt, xoa bóp trị liệu, siêu âm, tập thể dục, kích thích điện) và nghỉ ngơi, tránh mang vác vật nặng. Với cơn đau không đỡ, suy giảm nghiêm trọng chức năng hoặc không tự chủ bàng quang/ruột (có thể kích thích tủy sống), phẫu thuật có thể là cần thiết. Các phương pháp điều trị được thực hiện phụ thuộc vào tình trạng chung của cột sống, tuổi và sức khỏe của bệnh nhân.
Nguyên nhân xương lấn chiếm gây đau lưng dưới
Xương lấn chiếm: Bất kỳ tình trạng nào dẫn đến sự di chuyển hoặc tăng trưởng của đốt sống cột sống thắt lưng đều có thể giới hạn không gian (lấn chiếm) cho tủy sống và dây thần kinh lân cận. Nguyên nhân của sự xâm lấn xương tới các dây thần kinh cột sống bao gồm hẹp ống sống (chèn ép rễ thần kinh hoặc tủy sống bằng cách kích thích xương hoặc các mô mềm khác trong ống sống), thoái hóa cột sống. Dây thần kinh bị chèn ép trong những trường hợp này có thể dẫn đến đau thần kinh tọa tỏa xuống 2 chi dưới. Hẹp ống sống có thể gây ra những cơn đau ở chi dưới trở nên tồi tệ hơn khi đi bộ và đau có thể giảm bằng cách nghỉ ngơi. Điều trị những cơn đau này khác nhau, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của chúng, bắt đầu là nghỉ ngơi, tập thể dục phù hợp, có thể tiêm cortisone ngoài màng cứng hoặc phẫu thuật để xử lý nguyên nhân chèn ép dây thần kinh.
Nguyên nhân từ xương khớp gây ra đau lưng dưới
Các tình trạng bệnh lý về xương và khớp dẫn đến đau thắt lưng bao gồm những tình trạng tồn tại từ khi sinh ra (bẩm sinh), những nguyên nhân do hao mòn (thoái hóa) hoặc chấn thương và những bệnh do viêm khớp.
Nguyên nhân bẩm sinh
Nguyên nhân bẩm sinh (tồn tại từ khi sinh ra) liên quan tới đau thắt lưng bao gồm vẹo cột sống và tật nứt đốt sống. Vẹo cột sống là cột sống bị cong sang một bên có thể là do một chi dưới ngắn hơn so với bên kia (vẹo cột sống chức năng) hoặc do một cấu trúc bất thường của cột sống (vẹo cột sống cấu trúc). Trẻ em bị ảnh hưởng đáng kể bởi vẹo cột sống cấu trúc có thể yêu cầu điều trị bằng hoặc phẫu thuật cột sống. Người lớn không thể điều trị bằng phẫu thuật có thể dùng các phương pháp hỗ trợ. Tật nứt đốt sống là một khuyết tật bẩm sinh trong đó gai xương bị hở hay cột sống có phần kín không hoàn toàn. Hình thức nghiêm trọng nhất của nứt đốt sống có thể bao gồm cơ suy yếu hoặc liệt ở phần hở, mất cảm giác dưới phần hở và mất khả năng kiểm soát bàng quang và đại tràng.Tật nứt đốt sống thể ẩn: xuất hiện khoảng hở ở một hoặc nhiều đốt sống (xương) trên cột sống mà không gây tác hại rõ ràng tới tủy sống. Tuy nhiên, các thể nặng hơn có thể đi kèm với những bất thường nghiêm trọng về thần kinh của chi dưới. Những tình trạng bệnh lý có thể đi kèm với chứng nứt đốt sống là dị ứng latex, viêm gân, béo phì, bong tróc da, rối loạn hệ dạ dày ruột, khả năng tiếp thu kém, rối loạn vận động (tự ý), trầm cảm và các vấn đề về xã hội và tình dục.
Thoái hóa xương khớp
Khi chúng ta già đi, hàm lượng nước và protein trong sụn của cơ thể thay đổi. Sự thay đổi này dẫn đến sụn yếu hơn, mỏng hơn và dễ tổn thương hơn. Bởi vì cả đĩa đệm và khớp xếp chồng các đốt sống đều được cấu tạo một phần từ sụn, nên các khu vực này có thể bị hao mòn theo thời gian (thay đổi thoái hóa). Thoái hóa đĩa đệm cột sống là một hiện tượng của cơ thể trong đó các đĩa đệm dần dần bị hao mòn, giảm chất lượng do quá trình lão hóa theo thời gian. Các cấu trúc bao quanh bên ngoài sẽ không còn được chắc khỏe, giảm tính đàn hồi và có thể bị rách khiến nhân nhầy thoát ra khỏi bên ngoài. Thoái hóa đĩa đệm có thể được ghi nhận trên phim chụp X-quang, là sự thu hẹp của khoảng giữa các đốt sống. Đó là sự suy giảm của các mô đĩa đệm dẫn đến thoát vị đĩa đệm và đau vùng thắt lưng cục bộ (” thắt lưng “) ở bệnh nhân lớn tuổi. Thoái hóa khớp ( viêm xương khớp) cũng là một nguyên nhân gây đau vùng thắt lưng cục bộ có thể được phát hiện bằng xét nghiệm X-quang đơn giản. Những nguyên nhân gây đau lưng thoái hóa thường được điều trị bảo tồn bằng nhiệt không liên tục, nghỉ ngơi, các bài tập phục hồi chức năng và thuốc để giảm đau, co thắt cơ và giảm viêm.
Chấn thương xương và khớp
Gãy xương cột sống thắt lưng và xương cùng cụt thường ảnh hưởng nhất đến người cao tuổi bị loãng xương, đặc biệt là những người đã dùng thuốc cortisone lâu dài. Đối với những người này, đôi khi những căng thẳng nhỏ trên cột sống (chẳng hạn như uốn cong để buộc giày) có thể dẫn đến gãy xương. Trong tình trạng này, các đốt sống có thể sụp đổ (gãy nén đốt sống). Gãy xương gây ra cơn đau cục bộ ngay lập tức có thể lan tỏa quanh eo và trở nên tồi tệ hơn khi chuyển động. Cơn đau này thường không tỏa xuống các chi dưới. Gãy xương cột sống ở bệnh nhân trẻ chỉ xảy ra sau chấn thương nghiêm trọng, chẳng hạn như từ tai nạn xe cơ giới hoặc co quắp co giật nặng.
Ở cả bệnh nhân trẻ và lớn tuổi, gãy xương đốt sống phải mất hàng tháng để chữa lành bằng nghỉ ngơi và giảm đau. Gãy nén xương đốt sống liên quan đến loãng xương cũng có thể được điều trị bằng một phẫu thuật gọi là bơm xi măng sinh học cột sống hoặc kyphoplasty, có thể giúp giảm đau. Trong phương pháp này, bác sĩ dùng kim để cho một cái bong bóng vào chỗ xương bị gãy để làm cho hình dạng xương giống như bình thường, rồi sau đó họ bơm xi măng vào và lấy bong bóng ra. Đau được giảm bớt khi chiều cao của đốt sống bị sụp đổ được phục hồi.
Viêm khớp
Spondyloarthropathies là loại viêm khớp có thể ảnh hưởng đến vùng thắt lưng và cùng cụt. Viêm khớp là bệnh lý thường gặp, gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt và vận động do đau đớn. Nếu như ở người lớn tuổi, viêm khớp chủ yếu do bệnh thoái khóa khớp thì đối với những người trẻ tuổi hơn, nguyên nhân gây viêm khớp thường là do viêm đa khớp dạng thấp hoặc các bệnh khớp tự miễn khác. Ví dụ về bệnh lý viêm khớp bao gồm viêm khớp phản ứng (bệnh Reiter), viêm cột sống dính khớp, viêm khớp vẩy nến …. Các bệnh lý này có thể dẫn đến đau thắt lưng và cứng khớp, thường nặng hơn vào buổi sáng. Những tình trạng này thường bắt đầu vào tuổi ngoài 30. Có thể được điều trị bằng thuốc hướng đến giảm viêm. Các loại thuốc sinh học mới hơn đã thành công lớn trong việc làm dịu bệnh và ngăn chặn sự tiến triển của nó.
Các nguyên nhân khác của đau lưng dưới là gì?
Các nguyên nhân khác của đau thắt lưng bao gồm các vấn đề về thận, mang thai, các vấn đề về phần phụ (ở phụ nữ) và khối u.
Vấn đề về thận
Nhiễm trùng thận, sỏi và chảy máu sau chấn thương thận ( tụ máu ) thường liên quan đến đau thắt lưng. Sỏi thận là bệnh đường tiết niệu thường gặp nhất. Sỏi có thể ở bất kỳ vị trí nào trong đường tiểu như thận, niệu quản, bàng quang và niệu đạo nam giới (niệu đạo nữ giới rất ngắn nên không tạo sỏi). Sỏi thận có biểu hiện khá đa dạng, từ việc âm thầm gây thận ứ nước không triệu chứng đến tình trạng đau quặn bụng phải đi cấp cứu. Sỏi thận là những tinh thể rắn hình thành trong thận từ các chất trong nước tiểu. Quá trình này được gọi là quá trình tạo sỏi thận. Sỏi thận có thể nhỏ hoặc lớn đến vài cm. Những viên sỏi lớn lấp đầy bể thận và các ống mang nước tiểu từ thận đến bàng quang (niệu quản) được gọi là sỏi san hô. Khi những viên sỏi bị mắc kẹt trong niệu quản, các triệu chứng sẽ bắt đầu xuất hiện. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau đớn dữ dội (cơn đau quặn thận) xuất hiện sau đó biến mất và thường di chuyển từ hông lưng (sườn) đến bụng dưới. Sỏi thận có nhiều nguyên nhân và có thể ảnh hưởng bất kỳ phần nào của đường tiết niệu – từ thận đến bàng quang. Chẩn đoán có thể liên quan đến phân tích nước tiểu, siêu âm, chụp CT hoặc các phương pháp hình ảnh khác.
Mang thai
Mang thai thường dẫn đến đau thắt lưng bởi những căng thẳng cơ học cột sống thắt lưng (thay đổi độ cong của cột sống bình thường) và bởi vị trí của em bé bên trong bụng. Ngoài ra, tác dụng của nội tiết tố nữ estrogen và hormone nới lỏng dây chằng có thể góp phần nới lỏng dây chằng và cấu trúc của lưng. Các bài tập dành cho bà bầu thường được khuyên tập để giảm đau. Phụ nữ cũng được khuyến nghị duy trì điều hòa thể chất trong thai kỳ theo lời khuyên của bác sĩ. Chuyển dạ tự nhiên cũng có thể gây đau thắt lưng.
Vấn đề về buồng trứng
U nang buồng trứng , u xơ tử cung và lạc nội mạc tử cung cũng có thể gây đau thắt lưng.
U nang buồng trứng là các nang chứa đầy chất lỏng được tìm thấy trên hoặc bên trong buồng trứng. Hầu hết các u nang không gây đau đớn hoặc khó chịu và cuối cùng chúng có thể tự biến mất. Nhưng một u nang buồng trứng lớn, đặc biệt là nếu nó bị vỡ, có thể dẫn đến các triệu chứng nghiêm trọng.
Lạc nội mạc tử cung thường liên quan đến toàn bộ ống dẫn trứng, buồng trứng, ruột hoặc các mô trong sàn chậu. Các mô lạc nội mạc bao quanh có thể bị kích thích và gây đau đớn, hình thành mô sẹo và các túi chứa chất dịch khiến bạn khó mang thai. Nếu bạn nghi ngờ lạc nội mạc tử cung có thể là lý do khiến bạn đau bụng, hãy đi khám bác sĩ. Bệnh có thể được điều trị càng sớm thì càng ít biến chứng.
U xơ tử cung là bệnh thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Tùy theo vị trí và kích thước u mà bệnh biểu hiện với những triệu chứng khác nhau. Nếu u xơ nhỏ và không gây rối loạn kinh nguyệt cũng như không cản trở thụ thai thì bạn chỉ cần theo dõi và không cần điều trị. Ngược lại, nếu u xơ tử cung lớn, gây rong kinh, đau bụng kinh hoặc vô sinh, sẩy thai thì lúc này bạn cần được điều trị. Tùy theo loại u và tình hình sức khỏe của người phụ nữ mà có nhiều phương pháp điều trị khác nhau, việc lựa chọn cách điều trị phụ thuộc vào sự lựa chọn của người bệnh cùng với tư vấn của bác sĩ chuyên khoa phụ sản.
Khối u
Đau thắt lưng có thể do khối u, lành tính hoặc ác tính , bắt nguồn từ xương cột sống hoặc xương chậu, tủy sống (khối u nguyên phát) và những khối u có nguồn gốc từ nơi khác và lan sang các khu vực này (khối u di căn). Các triệu chứng bao gồm từ đau cục bộ đến đau dữ dội và mất chức năng thần kinh và cơ bắp (thậm chí đi đại tiện không tự chủ ) tùy thuộc vào việc các khối có ảnh hưởng đến mô thần kinh hay không. Khối u của các khu vực này được phát hiện bằng các xét nghiệm hình ảnh, chẳng hạn như CT scan và MRI .
Nguyên nhân không phổ biến của đau thắt lưng là gì?
Các nguyên nhân gây đau thắt lưng không phổ biến bao gồm bệnh xương, chảy máu hoặc nhiễm trùng xương chậu, nhiễm trùng sụn và / hoặc xương cột sống, phình động mạch chủ và bệnh zona .
Bệnh Paget ở xương
Bệnh Paget ở xương là chứng rối loạn bất thường trong quá trình hình thành và xây dựng cấu trúc xương. Thông thường, các tế bào xương cũ sẽ dần được thay thế bởi các tế bào xương mới. Bệnh Paget có khả năng ngăn chặn quá trình thay thế này. Qua thời gian, những xương bị ảnh hưởng trở nên yếu ớt và dễ gãy. Bất kỳ phần xương nào cũng có thể bị ảnh hưởng bởi bệnh Paget. Tuy nhiên xương vùng hộp sọ, cột sống, chân, xương chậu và xương cổ là những vùng dễ bị tác động nhiều nhất. Bệnh Paget phổ biến hơn ở những người trên 50 tuổi. Di truyền và một số bệnh nhiễm virus bất thường được cho là nguyên nhân. Sự dày lên của các xương liên quan đến khu vực cột sống thắt lưng có thể gây ra đau thần kinh tọa.
Bệnh Paget có thể được chẩn đoán trên X-quang. Tuy nhiên, sinh thiết xương đôi khi cần thiết để đảm bảo tính chính xác của chẩn đoán. Xạ hình xương là hữu ích để xác định mức độ của bệnh, có thể liên quan đến nhiều hơn một khu vực xương. Xét nghiệm máu, phosphatase kiềm rất hữu ích trong chẩn đoán và đáp ứng với điều trị. Các lựa chọn điều trị bao gồm aspirin , các loại thuốc chống viêm khác, thuốc giảm đau và thuốc làm chậm quá trình chuyển hóa xương, như calcitonin (Calcimar, Miacalcin), etidronate ( Didronel ), alendronate ( Fosamax ), risedronate ( Actonel ) Aredia).
Chảy máu hoặc nhiễm trùng ở khung chậu
Chảy máu ở khung chậu rất hiếm khi không có chấn thương đáng kể và thường thấy ở những bệnh nhân đang dùng thuốc chống đông, như warfarin (Coumadin). Ở những bệnh nhân này, cơn đau thần kinh tọa khởi phát nhanh có thể là dấu hiệu chảy máu ở phía sau xương chậu và bụng đang chèn ép các dây thần kinh cột sống ảnh hưởng tới các chi dưới. Nhiễm trùng vùng chậu ít xảy ra nhưng có thể là một biến chứng của các tình trạng như bệnh túi thừ , bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, bệnh viêm vùng chậu với nhiễm trùng vòi trứng hoặc tử cung, và thậm chí là viêm ruột thừa. Nhiễm trùng vùng chậu là một biến chứng nghiêm trọng của những tình trạng này và thường liên quan đến sốt, hạ huyết áp và tình trạng đe dọa tính mạng.
Nhiễm trùng đĩa đệm và xương cột sống
Nhiễm trùng đĩa đệm (viêm đĩa đệm) và xương ( viêm tủy xương ) là cực kỳ hiếm. Những tình trạng này dẫn đến đau cục bộ và sốt. Các vi khuẩn được tìm thấy khi các mô này được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm bao gồm Staphylococcus aureus và Mycobacterium tuberculosis ( vi khuẩn lao ). Nhiễm lao ở cột sống được gọi là bệnh Pott. Đây là mỗi tình trạng rất nghiêm trọng đòi hỏi các đợt kháng sinh dài. Các khớp sacroiliac hiếm khi bị nhiễm vi khuẩn. Brucellosis là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn có thể liên quan đến khớp sacroiliac và thường có trong sữa dê sống.
Chứng phình động mạch chủ
Ở người cao tuổi, xơ vữa động mạch có thể gây suy yếu thành của mạch máu động mạch lớn (động mạch chủ) trong bụng. Sự suy yếu này có thể dẫn đến phình ( phình động mạch ) ở thành động mạch chủ. Trong khi hầu hết chứng phình động mạch không gây ra triệu chứng, một số có thể gây ra đau thắt lưng. Chứng phình động mạch có kích thước nhất định, đặc biệt có thể tăng theo thời gian, có thể cần phải phẫu thuật để sửa chữa phần bất thường của động mạch.
Zona
Bệnh zona ( herpes zoster ) là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của các dây thần kinh cung cấp cảm giác cho da, thường ở một bên của cơ thể (phải hoặc trái). Bệnh nhân bị bệnh zona thường bị thủy đậu trước đó. Các virus herpes gây ra bệnh thủy đậu được cho là tồn tại trong trạng thái không hoạt động trong phạm vi các rễ thần kinh cột sống lâu sau khi bệnh thủy đậu đã khỏi. Ở những người bị bệnh zona, virus này hoạt động trở lại gây nhiễm trùng dọc theo dây thần kinh cảm giác, dẫn đến đau dây thần kinh và thường là sự bùng phát của bệnh zona (mụn nước nhỏ ở cùng một phía của cơ thể và cùng với cơn đau). Các triệu chứng zona thần kinh đầu tiên và đáng chú ý nhất thường là đau và nóng rát. Cơn đau thường điển hình ở một bên cơ thể và xuất hiện từng mảng nhỏ, theo sau là phát ban. Các mụn nước nhỏ có thể xuất hiện trong vài ngày sau đó và có thể biến mất hoặc tồi tệ hơn. Bệnh nhân đôi khi bị đau thần kinh mạn tính. Một số biến chứng hiếm và nghiêm trọng khác bao gồm: Đau hoặc phát ban có liên quan đến mắt, cần được điều trị để tránh tổn thương mắt vĩnh viễn; mất thính lực hoặc đau ở một tai dữ dội, chóng mặt hoặc mất vị giác, có thể là triệu chứng của hội chứng Ramsay Hunt.
Hầu hết các ca bệnh zona thần kinh có thể được chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Do đó, nếu bác sĩ nghi ngờ bạn gặp tình trạng này, họ sẽ thực hiện khám ban đỏ và mụn nước. Họ có thể yêu cầu một số xét nghiệm trong vài trường hợp và hỏi bệnh sử.
Trong trường hợp hiếm hoi, bác sĩ có thể yêu cầu để kiểm tra một mẫu da hoặc các chất dịch từ mụn nước. Bác sĩ sẽ sử dụng một tăm bông vô trùng để thu thập một mẫu mô hoặc chất dịch. Các mẫu này sau đó được gửi đến phòng thí nghiệm y tế để xác nhận sự hiện diện của virus.
Điều trị có thể liên quan đến giảm triệu chứng bằng các loại thuốc bôi, chẳng hạn như calamine, hoặc thuốc kháng virus chẳng hạn như acyclovir (Zovirax), hoặc với cơn đau nặng là Kem capsaicin, thuốc chống co giật, như gabapentin (Neurontin), thuốc chống trầm cảm ba vòng, chẳng hạn như amitriptyline, thuốc tê như lidocain, dạng kem, gel, thuốc xịt hay miếng dán, thuốc tiêm bao gồm corticosteroid và thuốc tê tại chỗ.
Các yếu tố nguy cơ cho đau thắt lưng là gì?
Các yếu tố nguy cơ của đau thắt lưng bao gồm hoạt động thể thao, nâng vật nặng, ném, di chuyển hành lý, chấn thương, nhiễm trùng thận, mang thai, loãng xương và lão hóa.
Các triệu chứng và dấu hiệu khác liên quan đến đau lưng dưới là gì?
Đau thắt lưng có thể gây ra một loạt các triệu chứng và dấu hiệu tùy thuộc vào nguyên nhân chính xác của đau lưng như đã xem xét ở trên. Các triệu chứng có thể liên quan đến đau thắt lưng bao gồm tê và / hoặc ngứa ran ở chi dưới, đại tiện không tự chủ, đau nặng hơn khi đi lại, yếu chi dưới , teo (giảm kích thước) của cơ dưới chi, phát ban, sốt, ớn lạnh, giảm cân, đau bụng, nóng rát khi đi tiểu, chóng mặt, đau khớp và mệt mỏi .
Làm thế nào để các bác sĩ chẩn đoán đau lưng dưới?
Chẩn đoán đau thắt lưng liên quan đến việc xem xét tiền sử bệnh và các tình trạng bệnh lý tiềm ẩn cũng như khám thực thể. Điều cần thiết là phải xem xét lại toàn bộ câu chuyện về đau lưng bao gồm tiền sử chấn thương, khi nào cơn đau nặng thêm và giảm bớt, các triệu chứng đau liên quan (sốt, tê, ngứa ran, không tự chủ, v.v.), cũng như thời gian và tiến triển của các triệu chứng. Ngoài việc đánh giá bụng và tứ chi thông thường, kiểm tra trực tràng và vùng chậu cũng có thể được yêu cầu.
Các xét nghiệm khác để chẩn đoán đau thắt lưng có thể được yêu cầu bao gồm xét nghiệm máu và nước tiểu, xét nghiệm X-quang, CT-Scan, MRI, xạn hình xương và kiểm tra các dây thần kinh như đo điện cơ (EMG) và vận tốc dẫn truyền thần kinh (NCV).
Điều trị đau vùng thắt lưng
Vậy, đau thắt lưng được điều trị như thế nào? Như mô tả ở trên, việc điều trị rất nhiều phụ thuộc vào nguyên nhân chính xác của đau lưng. Hơn nữa, mỗi bệnh nhân phải được đánh giá và quản lý riêng trong bối cảnh tình trạng sức khỏe nền và mức độ hoạt động cơ bản.
Được nhấn mạnh bởi nghiên cứu được trình bày tại hội thảo của American College of Rheumatology, một khía cạnh rất quan trọng của đánh giá cá nhân là sự hiểu biết và nhận thức riêng của bệnh nhân về tình huống cụ thể của họ. Các nhà nghiên cứu Anh phát hiện ra rằng những người tin rằng các triệu chứng của họ có hậu quả nghiêm trọng đối với cuộc sống của họ đã điều trị và có ít hậu quả để lại. Nghiên cứu này chỉ ra cho các bác sĩ tầm quan trọng của việc giải quyết các mối quan tâm và nhận thức mà bệnh nhân có về tình trạng của họ trong các đánh giá ban đầu.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng các điều kiện được liệt kê ở trên được dành cho đánh giá chung. Có nhiều nguyên nhân có thể gây đau lưng khác, bao gồm đau lưng ở phía trên chưa được thảo luận.
Biện pháp khắc phục tại nhà cho đau thắt lưng
Các biện pháp tự chăm sóc để giảm đau bao gồm sử dụng túi chườm nóng và lạnh, thuốc giảm đau tại chỗ, tránh bê vật nặng và dùng thuốc giảm đau không kê đơn như acetaminophen (Tylenol), naproxen ( Aleve ) và ibuprofen (Advil, Motrin).
Tiên lượng cho đau thắt lưng
Tiến triển của đau thắt lưng hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên nhân chính xác của nó. Ví dụ, căng cơ cấp tính thường chữa lành hoàn toàn với điều trị tối thiểu. Mặt khác, các bất thường xương gây kích thích tủy sống có thể yêu cầu phải phẫu thuật và tiên lượng phụ thuộc vào kết quả phẫu thuật. Kết quả tối ưu dài hạn thường liên quan đến các chương trình phục hồi chức năng trị liệu có thể liên quan đến các nhà trị liệu vật lý.
Có thể ngăn ngừa đau thắt lưng không?
Tránh chấn thương cho cơ thể nhất là vùng lưng là phương pháp ngăn ngừa đau thắt lưng. Ngoài ra, các chương trình tập thể dục được thiết kế để tăng cường cơ vùng thắt lưng và các mô lân cận có thể giúp giảm thiểu nguy cơ chấn thương cho vùng thắt lưng. Các chương trình cụ thể để giảm và ngăn ngừa đau lưng có thể được thiết kế với sự giúp đỡ của các nhà trị liệu vật lý và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe điều trị khác.
Hạn chế mang vác nặng
Những chiếc cặp nặng, túi đựng laptop, vali và ví có thể gây thêm căng thẳng và đè ép không cần thiết cho cổ và cột sống của bạn.
Cố gắng giảm những gì bạn cần mang theo và sử dụng túi phân phối trọng lượng đồng đều hơn, chẳng hạn như ba lô. Nếu bạn có thể, hãy sử dụng một vali kéo để giữ trọng lượng hoàn toàn khỏi lưng khi đi du lịch hoặc đi công tác xa.
Tập luyện các bài tập vào cơ cốt lõi
Các cơ trong và xung quanh bụng và lưng giúp bạn đứng thẳng và giúp bạn thực hiện các hoạt động thể chất. Tăng cường các cơ này cũng có thể làm giảm nguy cơ đau, căng hoặc tổn thương cho lưng của bạn.
Đưa các bài tập luyện các cơ này vào thói quen tập thể dục thường xuyên của bạn ít nhất hai lần một tuần.
Cải thiện tư thế của bạn
Tư thế xấu có thể gây áp lực không cần thiết và căng thẳng cho cột sống của bạn. Theo thời gian, điều này có thể dẫn đến đau đớn và tổn hại cột sống.
Thường xuyên nhắc nhở bản thân ngồi đúng tư thế, nếu có thể, để một chiếc gương trước mặt để tự điều chỉnh tư thế cho đúng.
Thay giày
Giày cao gót có khả năng gây tổn thương cho lưng của bạn nếu bạn mang chúng thường xuyên. Chọn giày thoải mái, gót thấp khi bạn có thể. Một inch là một gợi ý chiều cao gót tối đa.
Giãn cơ
Ngồi một vị trí quá lâu hoặc đứng quá lâu có thể khiến cơ luôn bị căng. Tập ài động tác giãn cơ thường xuyên để giúp cải thiện lưu thông trong các cơ và giảm nguy cơ đau lưng và tổn thương cơ.
Các bác sĩ chuyên khoa đánh giá và điều trị đau thắt lưng từ bác sĩ đa khoa đến bác sĩ chuyên khoa. Những chuyên khoa này bao gồm bác sĩ cấp cứu, y học đa khoa, y học gia đình, nội khoa, bác sĩ phẫu thuật cột sống (chỉnh hình và phẫu thuật thần kinh), thấp khớp, quản lý đau. Các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác cho đau thắt lưng bao gồm các nhà trị liệu vật lý, bác sĩ chỉnh hình, trị liệu xoa bóp, nhà tâm lý học và bác sĩ châm cứu.