Tâm lý

Rối loạn hoảng loạn là gì? Biểu hiện, nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị

Một cơn hoảng loạn diễn ra có thể khiến một người trở nên mất kiểm soát, muốn phát điên hay cảm giác như mình sắp chết. Bất cứ ai cũng đều có thể trải qua một cơn hoảng loạn khi có sự lo lắng cao độ. Nhưng bạn có biết nó cũng là một triệu chứng đặc trưng của chứng rối loạn hoảng sợ?

Vậy rối loạn hoảng loạn là gì? Rối loạn hoảng loạn có thể được chẩn đoán và điều trị như thế nào? Làm thế nào để phòng ngừa rối loạn hoảng loạn? Hãy cùng Drcuaban tìm hiểu câu trả lời ngay qua bài viết này!

Xem thêm: Tâm trạng lo lắng hay rối loạn lo âu là gì? Nguyên nhân, biểu hiện và cách điều trị

Rối loạn hoảng loạn là gì?

rối loạn hoảng sợ

Rối loạn hoảng loạn hay rối loạn hoảng sợ (panic disorder) là một tình trạng y tế tiềm ẩn và các cơn hoảng loạn (panic attacks) là một triệu chứng của nó. Theo Hiệp hội lo âu và trầm cảm Hoa Kỳ, ước tính có khoảng 6 triệu người Mỹ mắc chứng rối loạn hoảng sợ.

Những cơn hoảng loạn và rối loạn hoảng sợ có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai thuộc bất kỳ dân tộc nào. Nhưng nó phổ biến ở phụ nữ hơn so với nam giới và thường xảy ra khi một người ở tuổi trưởng thành sớm, từ 18 đến 25 tuổi.

Rối loạn hoảng sợ xảy ra khi một người đã trải qua nhiều cơn hoảng loạn và sống trong nỗi lo sợ về những cơn hoảng loạn khác. Trong khi tất cả mọi người đều có thể trải qua một cơn hoảng loạn trong cuộc đời, thì những người mắc chứng rối loạn hoảng sợ phải trải qua nhiều cơn hoảng loạn tái phát.

Nỗi sợ hãi phải đối mặt với sự tái phát bất ngờ hay những cơn hoảng loạn khác có thể khiến bệnh nhân sống tách biệt khỏi bạn bè và gia đình. Họ sợ đi ra ngoài hoặc ở những nơi công cộng. Chứng rối loạn hoảng sợ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của một người và cần phải được điều trị!

Triệu chứng của rối loạn hoảng loạn

Một cơn hoảng loạn thường xuất phát từ một tình huống hay sự cố xảy ra cụ thể. Nhưng cũng có thể khởi phát đột ngột và ngẫu nhiên mà không có nguyên nhân rõ ràng. Ở những người không bị rối loạn lo âu, một cơn hoảng loạn có thể xảy ra khi gặp phải một việc gì đó gây nên sự lo lắng. Nó được nhận định là đến từ các phản ứng tiến hóa khi cơ thể đối kháng với sự nguy hiểm.

Trải qua một cơn hoảng loạn được cho là một trong những trải nghiệm đáng sợ và khó chịu nhất trong cuộc sống của một con người.

Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA) lưu ý rằng một cơn hoảng loạn tấn công có thể chỉ kéo dài trong 15 giây. Nhưng các triệu chứng của nó có thể tiếp tục trong khoảng 30 phút hoặc lâu hơn và đôi khi trong nhiều giờ.

Theo Hiệp hội lo âu và trầm cảm Hoa Kỳ, một cơn hoảng loạn liên quan đến ít nhất bốn trong số các triệu chứng sau:

  • Đau hoặc khó chịu ở ngực.
  • Ớn lạnh hoặc cảm thấy nóng bất thường.
  • Giải thể thực tế hoặc giải thể nhân cách.
  • Cảm giác chóng mặt, mất thăng bằng.
  • Trải qua nỗi sợ hãi đột ngột, mạnh mẽ của cái chết.
  • Sợ mất kiểm soát hoặc cảm giác phát điên.
  • Đánh trống ngực, nhịp tim không đều hoặc nhịp tim nhanh.
  • Buồn nôn hoặc đau bụng.
  • Tê hoặc ngứa ran.
  • Run rẩy, run chân tay hoặc toàn thân.
  • Đổ mồ hôi.
  • Khó thở, có cảm giác nghẹt thở.

Các cơn hoảng loạn cũng có thể liên quan đến Bệnh sợ khoảng trống (agoraphobia), nỗi sợ hãi về những nơi mà bệnh nhân coi là nguy hiểm mà không có cách nào dễ dàng để thoát ra. Những người đã trải qua một cơn hoảng loạn thường nói sau đó họ cảm thấy bị “mắc kẹt”.

Đôi khi các triệu chứng liên quan đến một cơn hoảng loạn cũng có thể phản ánh các tình trạng y tế khác. Ví dụ các vấn đề bao gồm các bệnh về phổi, bệnh tim hoặc các vấn đề tuyến giáp.

Khó thở và đau ngực đôi khi là triệu chứng chủ yếu khi trải qua một cơn hoảng loạn, nên nhiều người nghĩ rằng đây là một cơn đau tim và tìm cách điều trị trong phòng cấp cứu. Nhưng nguyên nhân thực sự lại là do sự lo lắng. Các cơn hoảng loạn có khả năng điều trị cao, không có nghĩa là bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo âu về bệnh tật hoặc bệnh tâm thần.

Nguyên nhân

Các chuyên gia cho rằng sự lo âu và hoảng loạn, ở một mức độ nhất định, là một phần cần thiết trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, khi mức độ cao đến mức làm phá vỡ các quá trình suy nghĩ thông thường, con người trở nên sợ hãi.

Khi não nhận được sự gia tăng các tín hiệu thần kinh cảnh báo về các nguy hiểm sắp xảy ra, hạch hạnh nhân (amygdala), một phần của não, được kích hoạt. Hạch hạnh nhân kiểm soát các phản ứng lo lắng của một người.

Hạch hạnh nhân của một số người vẫn phản ứng với sự lo lắng khi không có nguy hiểm sắp xảy ra. Điều đó làm tăng cao khả năng họ sẽ phải trải qua các sự lo âu cao độ và nhiều cơn hoảng loạn.

Khi một người nhận được tín hiệu để phản ứng với sự lo lắng, họ sẽ sản xuất adrenaline hay còn được gọi là epinephrine.

Adrenaline được tạo ra bởi tuyến thượng thận. Một số người gọi adrenaline là hormone “sợ hãi hoặc bay”. Sự phóng thích adrenaline vào hệ thống có thể làm tăng nhịp tim, đổ mồ hôi, khuấy dạ dày và gây ra nhịp thở không đều. Đây là tất cả các đặc điểm của một cơn hoảng loạn.

Nếu không có nguy hiểm sắp xảy ra và hệ thống được nạp adrenaline, hormone đó sẽ tích tụ và không được đào thải. Sự tích tụ có thể gây ra một cơn hoảng loạn.

Có rất nhiều yếu tố nguy hiểm có thể làm tăng khả năng khiến một người trải qua một cơn hoảng loạn và mắc chứng rối loạn hoảng sợ. Di truyền học đóng một vai trò quan trọng.

Nếu một người có một thành viên thân thiết trong gia đình, chẳng hạn như cha mẹ hoặc anh chị em mắc chứng rối loạn hoảng sợ, họ có thể dễ bị hoảng loạn hơn.

Ngoài bệnh sử gia đình, việc trải qua những stress nặng, đau buồn trong cuộc sống, tổn thương tâm lý trầm trọng, thay đổi môi trường sống hoặc có những biến cố lớn trong đời cũng có thể gia tăng sự lo âu hay kích hoạt một cơn hoảng loạn.

Ví dụ như mất người thân hoặc sự sụp đổ trong hôn nhân. Có tiền sử bị lạm dụng thân thể hoặc lạm dụng tình dục cũng có thể làm tăng khả năng mắc chứng rối loạn hoảng sợ.

Những thói quen như hút thuốc hoặc uống quá nhiều caffeine cũng là những yếu tố nguy cơ liên quan đến rối loạn hoảng sợ.

Các cơn hoảng loạn cũng có thể xảy ra bên cạnh các tình trạng như: Rối loạn lo âu lan tỏa (GAD), rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) và rối loạn stress sau sang chấn (PTSD).

Tuy nhiên, đôi khi dường như không có sự cố cụ thể hoặc lịch sử gia đình nào kích hoạt một cơn rối loạn hoảng sợ. Chúng có thể xảy ra mà không có bất cứ cảnh báo nào.

Chẩn đoán

Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ xuất bản Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-5). Hướng dẫn liệt kê các tiêu chí để giúp bác sĩ chẩn đoán các rối loạn sức khỏe tâm thần, chẳng hạn như trầm cảm hoặc rối loạn hoảng sợ. Nó nhằm mục đích cung cấp một tiêu chuẩn để chẩn đoán trên toàn thế giới.

Các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn hoảng sợ bao gồm:

  1. Trải qua các cơn hoảng loạn thường xuyên và bất ngờ.
  2. Có ít nhất một tháng liên tục sợ hãi có một cơn hoảng loạn và các triệu chứng đi kèm, chẳng hạn như mất kiểm soát. Một người có thể vì sợ hãi một cơn hoảng loạn ở nơi công cộng mà thay đổi rõ ràng hành vi của mình.
  3. Phát sinh các cơn hoảng loạn khi loại bỏ khả năng do hệ quả trực tiếp từ việc dùng một số loại thuốc hoặc các rối loạn sức khỏe tâm thần khác, chẳng hạn như ám ảnh sợ xã hội.

Một người khi có các triệu chứng này có khả năng bị rối loạn hoảng sợ.

Điều trị

Các phương pháp điều trị phổ biến nhất bao gồm: Thuốc và tâm lý trị liệu.

Tâm lý trị liệu

Được biết đến như “liệu pháp nói chuyện”, tâm lý trị liệu bao gồm nói chuyện với một chuyên gia sức khỏe tâm thần được cấp phép (một nhà trị liệu học hoặc tâm lý học) để xác định các tác nhân tiềm ẩn của một cơn hoảng loạn, nhằm mục đích đối phó và vượt qua sự lo lắng khi nó xảy ra.

Thuốc

Thuốc cũng có thể giúp điều chỉnh sự mất cân bằng có thể dẫn đến lo âu nghiêm trọng trong dẫn truyền thần kinh trong não.

Các loại thuốc bao gồm:

  • Các thuốc benzodiazepin, như alprazolam (Xanax) hoặc clonazepam (Klonopin).
  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI), như fluoxetine (Prozac), paroxetine (Paxil) hoặc sertraline (Zoloft).
  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine (SNRI), như hydrochloride (Effexor XR).

Đôi khi một loại thuốc có tác dụng tốt đối với một bệnh nhân mắc chứng rối loạn lo lắng, nhưng với bệnh nhân khác thì không. Vì vậy mỗi bệnh nhân luôn cần được nghiên cứu và thảo về lợi ích tiềm năng cũng như các tác dụng phụ khi sử dụng thuốc.

Theo Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ (NIMH), các bác sĩ cũng có thể kê toa các loại thuốc đối kháng thụ thể beta (beta blocker), giúp nhịp tim của bệnh nhân không trở nên quá nhanh và làm giảm sự gia tăng stress.

Phòng ngừa

Ngoài các phương pháp điều trị y tế cho chứng rối loạn hoảng sợ, một số thay đổi lối sống thường ngày có thể giúp một người giảm tỷ lệ mắc các cơn hoảng loạn và rối loạn hoảng sợ.

Các biện pháp bao gồm:

  • Tránh các tác nhân gây ra chứng rối loạn hoảng sợ, bao gồm: caffeine, hút thuốc hoặc sử dụng các chất kích thích.
  • Ngủ đủ giấc mỗi đêm, xây dựng chế độ ăn uống điều độ.
  • Tham gia nhóm hỗ trợ cho những người phải trải qua các cơn hoảng loạn thường xuyên.
  • Cố gắng giảm căng thẳng trong cuộc sống, chẳng hạn như tập yoga, hít thở sâu hoặc tham gia các hoạt động thể chất thường xuyên.

Biến chứng

Nếu không được điều trị, chứng rối loạn hoảng sợ có thể bắt đầu ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong cuộc sống của một người.

Các biến chứng có thể bao gồm:

  • Lạm dụng rượu hoặc các chất khác như một cách để thoát khỏi những sự lo lắng trong cuộc sống hàng ngày.
  • Các hội chứng ám ảnh sợ hãi, chẳng hạn như: Chứng sợ không gian công cộng.
  • Các vấn đề về tài chính.
  • Tăng nguy cơ suy nghĩ về tự tử.
  • Né tránh các tình huống giao tiếp xã hội.
  • Thường xuyên yêu cầu chăm sóc y tế do các vấn đề sức khỏe.

Tìm kiếm điều trị y tế cho rối loạn hoảng sợ có thể giúp bệnh nhân ngăn ngừa các biến chứng này.

Vài điều về tác giá

Dr. Hung

Thích viết, đam mê chia sẻ kiến thức đến cộng đồng và mong muốn mọi người đều có kiến thức cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như người thân. Ngoài ra còn thích nghe nhạc trữ tình, làm đồ handmade...

Leave a Comment