Tâm lý

Trầm cảm là gì? Biểu hiện, phân loại, nguyên nhân và điều trị

Buồn bã, cảm thấy hụt hẫng hoặc vô vọng – đây là những triệu chứng quen thuộc với tất cả chúng ta. Nhưng, nếu chúng ảnh hưởng đáng kể đến cuộc sống hằng ngày, thì đó có thể là trầm cảm.

Một số người bị trầm cảm có thể cố gắng che giấu, hoặc thậm chí họ có thể không nhận ra rằng họ bị trầm cảm. Vậy phải làm thế nào để nhận ra những dấu hiệu trầm cảm?

Hãy đọc bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn trầm cảm là gì và bạn có thể làm gì nếu người thân của bạn bị trầm cảm?

Xem thêm: Sức khỏe tâm thần là gì? Những điều cơ bản bạn cần biết

Sự thật nhanh về trầm cảm

  • Trầm cảm dường như phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới.
  • Các triệu chứng bao gồm thiếu niềm vui, cảm giác buồn vã và mất hứng thú với những niềm vui trước đây.
  • Các nỗi buồn hay sự mất mát cuộc sống, chẳng hạn như mất người thân, được phân biệt với các đặc điểm của trầm cảm.
  • Nguyên nhân của trầm cảm không được hiểu đầy đủ nhưng có khả năng là sự kết hợp phức tạp của các yếu tố di truyền, sinh học, môi trường và tâm lý xã hội.
  • Trầm cảm có thể chữa khỏi hoàn toàn.

Trầm cảm là gì?

trầm cảm là gì

Trầm cảm (depressive) là một bệnh tâm thần học phổ biến, do hoạt động của bộ não bị rối loạn gây nên những biến đổi tiêu cực đến cảm giác, cách suy nghĩ, hành vi và tác phong.

Trầm cảm gây ra cảm giác buồn bã hoặc mất hứng thú với các hoạt động. Nó có thể dẫn đến một loạt các vấn đề về cảm xúc và thể chất. Thậm chí, có thể làm giảm khả năng hoạt động của một người tại nơi làm việc hay ở nhà.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trầm cảm là căn bệnh phổ biến nhất trên toàn thế giới và là nguyên nhân hàng đầu gây ra khuyết tật. Họ ước tính rằng 350 triệu người bị ảnh hưởng bởi trầm cảm trên toàn cầu.

Trầm cảm ảnh hưởng đến một trong 15 người trưởng thành (6,7%) trong bất kỳ năm nào. Và một trong sáu người (16,6%) sẽ trải qua trầm cảm vào một lúc nào đó trong cuộc đời của họ. Trầm cảm có thể tấn công bất cứ lúc nào, nhưng trung bình, lần đầu tiên xuất hiện trong độ tuổi thanh thiếu niên đến giữa những năm 20 tuổi. Phụ nữ có nhiều khả năng bị trầm cảm hơn đàn ông, với tỷ lệ giới tính: nam/nữ = 1/2. Một số nghiên cứu cho thấy một phần ba phụ nữ sẽ trải qua một giai đoạn trầm cảm lớn trong đời.

Trầm cảm khác gì với nỗi buồn thông thường?

Trầm cảm khác với những biến động trong tâm trạng mà mọi người trải qua trong cuộc sống bình thường. Phản ứng cảm xúc tạm thời với những thách thức của cuộc sống hàng ngày không cấu thành trầm cảm.

Cái chết của người thân, mất việc hoặc kết thúc một mối quan hệ là những trải nghiệm khó khăn. Mọi người cảm giác buồn bã hoặc mất mát  trong các tình huống như vậy. Nhiều người có thể mô tả bản thân họ bị trầm cảm.

Mặc dù có một số đan xen giữa đau buồn và trầm cảm, rất khó để có thể phân biệt được, nhưng chúng là khác nhau!  “Trầm cảm không phải là khi bạn thấy buồn vì mọi thứ không xảy ra theo ý bạn mà là bạn thấy buồn mặc cho mọi việc vẫn diễn ra tốt đẹp.” Quá trình đau buồn là tự nhiên và mang tính cá nhân, mặc dù có một số đặc điểm tương tự của trầm cảm:

  • Trong đau buồn khi mất người thân, những cảm giác đau đớn xuất hiện theo đợt, thường xen lẫn với những ký ức tích cực về người đã khuất. Trong trầm cảm, tâm trạng và/hoặc khoái cảm bị giảm trong hầu hết hai tuần.
  • Trong đau buồn, lòng tự trọng thường được duy trì. Trong trầm cảm, người bệnh cảm giác vô dụng và ghê tởm bản thân.
  • Đối với một số người, cái chết của một người thân có thể gây ra trầm cảm. Mất việc hoặc một áp lực cuộc sống lớn cũng có thể dẫn đến trầm cảm cho một số người. Khi đau buồn và trầm cảm cùng tồn tại, nỗi đau buồn nghiêm trọng hơn và kéo dài hơn những đau thông thường.

Phân biệt giữa nỗi buồn thông thường và trầm cảm có thể giúp người bệnh nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ hoặc điều trị kịp thời.

Các loại trầm cảm

Trầm cảm đơn cực và rối loạn lưỡng cực

Nếu đặc điểm nổi trội là tâm trạng chán nản, nó được gọi là trầm cảm đơn cực. Tuy nhiên, nếu nó được đặc trưng bởi cả hai giai đoạn cảm xúc hưng phấn và cảm xúc ức chế cách nhau bởi các giai đoạn tâm trạng bình thường, thì nó được gọi là rối loạn lưỡng cực.

Trầm cảm đơn cực có thể liên quan đến lo lắng và các triệu chứng khác – nhưng không có cơn hưng cảm. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, trong khoảng 40% tổng thời gian, những người bị rối loạn lưỡng cực chỉ có biểu hiện trầm cảm, khiến hai loại này rất khó phân biệt.

Hội chứng trầm cảm có đặc điểm rối loạn tâm thần

Tình trạng này được đặc trưng bởi trầm cảm kèm theo rối loạn tâm thần. Tâm thần có thể liên quan đến ảo tưởng – biến dạng nhận thức và tách rời khỏi thực tế, hoặc ảo giác – cảm nhận những thứ không tồn tại.

Trầm cảm sau sinh

Trầm cảm sau sinh ảnh hưởng chủ yếu đến phụ nữ và một số ít nam giới sau khi đứa con sinh ra. Với phụ nữ, trầm cảm thường do thời điểm sau sinh nội tiết tố bị rối loạn, thêm vào đó là những mệt mỏi trong thời kỳ mang thai và sau khi sinh, cùng những rắc rối trong quan hệ vợ chồng. Với đàn ông nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi đột ngột lối sống cùng sự suy giảm mối quan tâm của vợ, vì lúc này cô ấy phải tập trung trong vai trò làm mẹ, người chồng cũng có thể bị trầm cảm.

Trầm cảm theo mùa

Trầm cảm theo mùa (seasonal affective disorder – SAD) hay rối loạn cảm xúc theo mùa thường xảy ra vào mùa đông, có tính chất chu kỳ rõ rệt và khi qua khỏi mùa bị ảnh hưởng người mắc lại có sức khỏe tâm lý như bình thường,  thông thường sẽ phục hồi trở lại vào mùa xuân hoặc hè. Tình trạng này có liên quan đến việc giảm ánh sáng ban ngày của mùa đông . Các quốc gia có mùa đông dài hoặc nghiêm trọng dường như bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi tình trạng này.

Nguyên nhân dẫn đến trầm cảm

Các nhà khoa học chưa biết nguyên nhân chính xác của trầm cảm.  Trầm cảm có thể là do sự kết hợp phức tạp của các yếu tố bao gồm:

  • Di truyền
  • Miễn dịch – những thay đổi về mức độ dẫn truyền thần kinh
  • Môi trường
  • Tâm lý và yếu tố xã hội (tâm lý xã hội)

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia  nhận định rằng một số người có nguy cơ trầm cảm cao hơn những người khác, các yếu tố đóng vai trò trong sự khởi đầu của trầm cảm bao gồm:

  • Các vấn đề trong cuộc sống: Bao gồm áp lực cuộc sống, hoặc do những điều bất thường, ví dụ: mất người thân, ly hôn, mâu thuẫn trong gia đình, bị trù dập ở nơi làm việc, các vấn đề tài chính hoặc stress nặng.
  • Đặc điểm tính cách: Những người bi quan có thể tăng nguy cơ trầm cảm.
  • Yếu tố di truyền: Có người thân, cha me bị trầm cảm làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
  • Các tổn thương thời thơ ấu.
  • Một số loại thuốc có tác dụng phụ : Bao gồm corticosteroid, các thuốc chẹn beta , interferon và các loại thuốc theo toa khác.
  • Lạm dụng chất kích thích: Lạm dụng rượu, amphetamine và các loại thuốc khác có liên quan mạnh mẽ đến trầm cảm.
  • Một chấn thương đầu trong quá khứ.
  • Đã có một giai đoạn trầm cảm lớn: Điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiếp theo.
  • Các yếu tố môi trường: Tiếp xúc liên tục với bạo lực, hoặc nghèo đói có thể khiến một số người dễ bị trầm cảm hơn.
  • Các bệnh thực tổn: các rối loạn nội tiết, bao gồm: bệnh tiểu đường, giảm năng tuyến giáp, hội chứng Cushing; hoặc các rối loạn thần kinh, bao gồm: các tai biến mạch máu não, khối máu tụ dưới màng cứng, u não, bệnh parkinson… có thể làm cho trầm cảm dễ xảy ra hơn.

Biểu hiện

Các triệu chứng trầm cảm có thể bao gồm:

Cảm thấy buồn hoặc có tâm trạng chán nản

Những người bị trầm cảm dễ bị tổn thương, cũng có thể bi quan. Các nghiên cứu cho thấy những người mắc chứng rối loạn trầm cảm thường có cái nhìn tiêu cực hơn về tương lai.

Thực tế, cảm thấy buồn, chán nản hoặc bi quan hơn những người khác có thể là một dấu hiệu của trầm cảm, đặc biệt nếu người đó có các triệu chứng trầm cảm khác.

Mất hứng thú hoặc giảm niềm vui trong các hoạt động hay sở thích trước đây

Các Viện sức khỏe tâm thần nhận định rằng  “mất hứng thú hoặc niềm vui trong những sở thích và hoạt động” là một trong những triệu chứng của trầm cảm.

Không quan tâm đến các hoạt động mà một người từng thích có thể là một trong những dấu hiệu đầu tiên mà người khác nhận thấy khi người thân của họ bị trầm cảm.

Thay đổi khẩu vị – giảm cân hoặc tăng cân không liên quan đến chế độ ăn kiêng

Ăn quá nhiều hoặc quá ít có thể là dấu hiệu của trầm cảm. Một số người cảm thấy ăn ngon miệng khi thay đổi các loại thực phẩm, trong khi những người khác mất cảm giác ngon miệng hoặc ăn ít hơn do tâm trạng kém.

Những thay đổi trong lượng thức ăn có thể khiến một người bắt đầu tăng hoặc giảm cân.

Thay đổi cân nặng nghiêm trọng cũng có thể làm trầm cảm trở nên nghiêm trọng hơn, vì chúng có thể ảnh hưởng đến lòng tự trọng của một người.

Thay đổi thói quen ngủ

Có một liên kết mạnh mẽ giữa tâm trạng và giấc ngủ. Thiếu ngủ có thể góp phần vào trầm cảm, và trầm cảm có thể khiến bạn khó ngủ hơn.

Theo Tổ chức Giấc ngủ Quốc gia, những người bị mất ngủ có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 10 lần so với những người không mắc bệnh này.

Tuy vậy, ngủ quá nhiều cũng có thể là dấu hiệu cho thấy một người bị trầm cảm.

Mất năng lượng hoặc tăng mệt mỏi

Cảm thấy mệt mỏi quá mức là một triệu chứng rất phổ biến của trầm cảm. Một số nghiên cứu cho thấy rằng hơn 90% những người bệnh cảm thấy mệt mỏi.

Mặc dù mọi người đều cảm thấy mệt mỏi theo thời gian, những người bị mệt mỏi nghiêm trọng hoặc kéo dài – đặc biệt là nếu nó đi kèm với các triệu chứng khác – có thể mắc trầm cảm.

Kích động tâm lý

 Nhiều người cho rằng sự tức giận và cáu kỉnh không liên quan tới với trầm cảm, nhưng những thay đổi tâm trạng này, trên thực tế, lại không phải là bất thường ở những người mắc trầm cảm.

Thay vì tỏ ra buồn bã, một số người mắc chứng trầm cảm có cảm giác lo lắng vô cớ và có thể biểu lộ sự tức giận, cáu kỉnh hoặc tăng hoạt động thể chất không mục đích (ví dụ:  bước lên và xuống , vắt tay hoặc gõ tạo nhịp).

Thay đổi về hình thức

Hình thức của một người có thể gợi ý về trường hợp trầm cảm: không chú ý đến diện mạo, áo quần lôi thôi, vệ sinh thân thể kém, cử chỉ chậm chạp hoặc giọng nói trầm buồn…

Cảm thấy vô dụng, tội lỗi

Nhiều người bệnh luôn có ý nghĩ tiêu cực về bản thân, họ cảm thấy bản thân vô giá trị, cảm giác tuyệt vọng và không có lối thoát. Với những người bệnh nặng hơn còn gặp khó khăn hay không thể thực hiện những việc bình thường như đi ra ngoài, hoặc giao tiếp với xã hôi. Thậm chí những công việc vệ sinh cá nhân đánh răng, tắm giặt cũng trở nên quá sức. Họ không còn niềm tin vào bản thân và tương lai.

Ham muốn tình dục thấp

Theo Tiến sĩ Jennifer Payne, giám đốc Trung tâm Rối loạn Tâm trạng Phụ nữ tại Johns Hopkins Medicine ở Baltimor, một số chuyên gia y tế coi những thay đổi trong quan hệ tình dục là một chỉ số chính để chẩn đoán các giai đoạn trầm cảm chính.

Giảm hoặc mất ham muốn tình dục ở cả hai phái: có thể yếu hoặc mất chức năng cương cứng ở nam giới, lãnh cảm ở phụ nữ thường xuất hiện sau khi sinh (hậu sản/ trầm cảm sau sinh).

Đau vật lý và rối loạn sức khỏe

Trầm cảm là một tình trạng sức khỏe tâm thần, nhưng nó cũng có thể có hậu quả về thể chất. Ngoài thay đổi cân nặng và mệt mỏi, các triệu chứng thể chất khác của trầm cảm tiềm ẩn cần chú ý bao gồm: đau lưng, đau đầu,  tức ngực, tình trạng đau mãn tính, vấn đề về tiêu hóa…

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người bị trầm cảm nặng có nhiều khả năng mắc phải: viêm khớp, các vấn đề về hệ miễn dịch, ung thư, bệnh tim, tiểu đường type 2.

Suy giảm khả năng suy nghĩ, tập trung hoặc đưa ra quyết định

Khi một người thoát ra trong các cuộc trò chuyện hoặc mất đi sự suy nghĩ, nó có thể chỉ ra các vấn đề với trí nhớ và sự tập trung, đó là một triệu chứng phổ biến của trầm cảm.

Một nghiên cứu cho thấy, những khó khăn với sự suy nghĩ và tập trung có thể làm xấu đi quan hệ xã hội của bệnh nhân trầm cảm, chúng làm cho cuộc sống công việc và các mối quan hệ cá nhân trở nên khó khăn hơn.

Suy nghĩ thường xuyên về cái chết hoặc cố gắng tự tử

Hầu hết bệnh nhân trầm cảm đều có ý nghĩ về cái chết hoặc có ý định tự sát. Nỗi ám ảnh kéo dài theo thời gian khiến người bệnh dần dần tự nghĩ rằng chết đi sẽ là một ‘lối thoát’. Hành vi tự sát có thể đột ngột hay được chuẩn bị, âm thầm hoặc báo trước.

Nguy cơ tự sát ở người bị trầm cảm

Trầm cảm là nguyên nhân của hơn 50% những trường hợp tự sát.Theo các thống kê thì tuy nam giới ít bị trầm cảm hơn, nhưng khi rơi vào trầm cảm, xu hướng tự sát lại cao hơn.

Những bệnh nhân trầm cảm tự sát đa số ở hai nhóm chính:

  • Nam giới, trên 50 tuổi, sống ở nông thôn.
  • Nữ giới, trẻ tuổi, sống ở thành thị.

Ý đồ tự sát nhiều hơn gấp 10-12 lần so với hành vi tự sát. Nguy cơ cao ở những bệnh nhân mà bản thân hoặc người cùng huyết thống từng tự sát, trầm cảm, nghiện rượu, cũng như ở những người sống cô lập với xã hội.

Tự sát có thể đột ngột hay được chuẩn bị trước, âm thầm hoặc báo trước.

Chẩn đoán

Trước khi chẩn đoán hoặc điều trị, nên tiến hành đánh giá chẩn đoán kỹ lưỡng, bao gồm một cuộc hỏi bệnh và có thể kiểm tra thể chất. Cần loại trừ vấn đề y tế (ví dụ, các vấn đề về tuyến giáp, khối u não hoặc thiếu vitamin) có thể giống các triệu chứng trầm cảm, đảm bảo chẩn đoán phân biệt chính xác để điều trị an toàn và hiệu quả.

Có thể chẩn đoán trầm cảm theo tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn DSM IV dùng chẩn đoán trầm cảm

Trong vòng hai tuần, hầu như mỗi ngày:

Tính khí sầu muộn và/hoặc từ chối những nguồn vui vốn có cộng với ít nhất 4 trong số các triệu chứng sau:

  • Giảm hoặc lên cân, giảm hoặc tăng cảm giác ngon miệng.
  • Mất ngủ hoặc ngủ triền miên.
  • Kích động hoặc trở nên chậm chạp.
  • Mệt mỏi hoặc mất sức.
  • Cảm giác vô dụng, vô giá trị hoặc mặc cảm tội lỗi.
  • Giảm khả năng tập trung, do dự.
  • Hay nghĩ đến cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.
  • Không còn ham muốn các lĩnh vực trong cuộc sống như phim ảnh, các hoạt động thế thao các hoạt động xã hội rơi vào trạng thái buồn không lý do,chán nản không muốn phấn đấu,làm việc. Người trầm cảm luôn có cảm giác bị bỏ rơi, bị mọi người xa lánh.

Tiêu chuẩn ICD-10 F32

Theo ICD:

  • F32.0 Giai đoạn trầm cảm nhẹ (người bị bệnh cảm thấy không được khỏe và tìm sự giúp đỡ của bác sĩ, sinh hoạt bình thường).
  • F32.1 Trầm cảm mức trung bình (những yêu cầu trong công việc và việc nhà không thể đảm nhiệm nổi).
  • F32.2 Trầm cảm nặng (bệnh nhân cần được điều trị tâm lý xã hội).
  • F32.3 Trầm cảm nặng kèm theo những biểu hiện thần kinh khác.
  • F32.8 và 9 Những giai đoạn trầm cảm khác.

Điều trị

Trầm cảm là một bệnh tâm thần có thể chữa được. Các phương pháp điều trị bao gồm:

Tâm lý trị liệu

Trong trường hợp trầm cảm nhẹ, liệu pháp tâm lý là lựa chọn đầu tiên để điều trị; trong trường hợp vừa và nặng, chúng có thể được sử dụng cùng với điều trị khác.

Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT) và liệu pháp trị liệu giữa các cá nhân là hai loại trị liệu tâm lý chính được sử dụng trong trầm cảm.

CBT đã được cho rằng có hiệu quả trong điều trị trầm cảm. CBT là một hình thức trị liệu tập trung vào hiện tại và giải quyết vấn đề. CBT giúp một người nhận ra suy nghĩ lệch lạc và sau đó thay đổi hành vi và suy nghĩ.

Tâm lý trị liệu có thể chỉ liên quan đến cá nhân, nhưng nó có thể bao gồm những người khác.

Liệu pháp trị liệu giữa các cá nhân giúp bệnh nhân xác định các vấn đề cảm xúc ảnh hưởng đến mối quan hệ và giao tiếp: liệu pháp gia đình hoặc các cặp vợ chồng có thể giúp nhau giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ chặt chẽ này. Liệu pháp nhóm liên quan đến những người mắc bệnh tương tự.

Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của trầm cảm, việc điều trị có thể mất vài tuần hoặc lâu hơn nhiều.

Thuốc chống trầm cảm

Thuốc chống trầm cảm là thuốc có sẵn theo toa của bác sĩ. Thuốc được sử dụng cho trầm cảm từ trung bình đến nặng, nhưng không được khuyến cáo cho trẻ em, đồng thời cần được kê đơn thận trọng cho thanh thiếu niên.

Một số nhóm thuốc có sẵn trong điều trị trầm cảm:

  • Các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs)
  • Chất ức chế monoamin oxydase (MAOIs)
  • Thuốc chống trầm cảm ba vòng
  • Thuốc chống trầm cảm không điển hình
  • Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin và norepinephrine (SNRI)

Mỗi nhóm thuốc chống trầm cảm tác động lên một chất dẫn truyền thần kinh khác nhau. Thuốc chống trầm cảm có thể tạo ra một số cải thiện trong vòng một hoặc hai tuần đầu tiên sử dụng. Nếu một bệnh nhân cảm thấy ít hoặc không cải thiện sau vài tuần, bác sĩ tâm thần của họ có thể thay đổi liều thuốc hoặc thêm hoặc thay thế một loại thuốc chống trầm cảm khác. Điều quan trọng là phải cho bác sĩ của bạn biết nếu một loại thuốc không hoạt động hoặc nếu bạn gặp tác dụng phụ.

Các loại thuốc nên được dùng liên tục theo chỉ định của bác sĩ, ngay cả sau khi các triệu chứng đã được cải thiện, để ngăn ngừa tái phát.

Một cảnh báo từ Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA): “Thuốc chống trầm cảm có thể làm tăng suy nghĩ hoặc hành động tự tử ở một số trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên trong vài tháng đầu điều trị”.

Bất kỳ mối quan tâm nào phải luôn được nêu ra với bác sĩ – bao gồm mọi ý định ngừng dùng thuốc chống trầm cảm.

Tập thể dục và các liệu pháp khác

Tập thể dục

Đối với nhiều người, tập thể dục thường xuyên giúp tạo cảm giác tích cực và cải thiện tâm trạng. Tập thể dục nhịp điệu có thể giúp chống trầm cảm nhẹ vì nó làm tăng mức endorphin và kích thích chất dẫn truyền thần kinh norepinephrine, có liên quan đến tâm trạng.

Liệu pháp sốc điện (ECT)

Là một phương pháp điều trị y tế được sử dụng phổ biến nhất cho những bệnh nhân bị trầm cảm nặng hoặc rối loạn lưỡng cực không đáp ứng với các phương pháp điều trị khác. Nó liên quan đến một kích thích điện ngắn của não trong khi bệnh nhân được gây mê.

Một bệnh nhân thường nhận ECT hai đến ba lần một tuần trong tổng số 6 đến 12 lần điều trị.

ECT đã được sử dụng từ những năm 1940, và nhiều năm nghiên cứu đã dẫn đến những cải tiến lớn. Nó thường được quản lý bởi một nhóm các chuyên gia y tế được đào tạo bao gồm bác sĩ tâm thần, bác sĩ gây mê và điều dưỡng hoặc trợ lý bác sĩ.

Phải làm gì nếu bạn nghĩ mình bị trầm cảm?

Những người tin rằng họ có thể bị trầm cảm nên nói chuyện với bác sĩ hoặc một chuyên gia sức khỏe tâm thần. Những chuyên gia này có thể giúp chẩn đoán và đề nghị một quá trình điều trị.

Các bước đầu tiên để điều trị trầm cảm có thể bao gồm:

  • Giảm căng thẳng, chẳng hạn như thông qua: thiền, tập thở sâu hoặc yoga.
  • Cải thiện lòng tự trọng thông qua sự khẳng định bản thân tích cực.
  • Giao tiếp với người khác (mặc dù điều này là thách thức với trầm cảm).
  • Tham gia vào các hoạt động mà người đó từng thích hoặc cố gắng xác định các hoạt động mới mà họ có thể quan tâm.
  • Tập thể dục thường xuyên.
  • Ăn một chế độ ăn uống cân bằng.
  • Nhờ gia đình hoặc bạn bè hỗ trợ.
  • Tham gia nhóm hỗ trợ.

Phải làm gì nếu người thân bị trầm cảm?

Nếu người thân dường như có dấu hiệu trầm cảm tiềm ẩn, hãy cố gắng nói chuyện với họ về các triệu chứng của họ, đưa ra lời khuyên và không phán xét.

Điều này có thể bao gồm:

  • Khuyến khích họ tìm cách điều trị.
  • Đề nghị đi cùng với họ đến các cuộc hẹn.
  • Lên kế hoạch cho các hoạt động thú vị cùng nhau.
  • Tập thể dục cùng nhau.
  • Khuyến khích họ giao tiếp với người khác.

Những người chăm sóc người bị trầm cảm cũng cần thực hành chăm sóc bản thân tốt để giữ gìn sức khỏe tinh thần của chính mình.

Vài điều về tác giá

Dr. Hung

Thích viết, đam mê chia sẻ kiến thức đến cộng đồng và mong muốn mọi người đều có kiến thức cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như người thân. Ngoài ra còn thích nghe nhạc trữ tình, làm đồ handmade...

Leave a Comment