Ung thư

Phòng chống ung thư: Những điều bạn cần biết để ngăn ngừa ung thư

Phòng chống ung thư là hành động được thực hiện để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Điều này có thể bao gồm duy trì lối sống lành mạnh, tránh tiếp xúc với các chất gây ung thư, dùng thuốc hoặc vắc-xin có thể ngăn ngừa ung thư phát triển.

Cách ung thư hình thành

Carcinogenesis là quá trình trong đó các tế bào bình thường biến thành tế bào ung thư. Các tế bào là đơn vị nhỏ nhất của cơ thể và chúng tạo nên các mô. Mỗi tế bào chứa các gen điều hòa cách cơ thể tăng trưởng, phát triển và tự sửa chữa. Có nhiều gen kiểm soát một tế bào sống hay chết, phân chia (nhân lên) hoặc đảm nhận các chức năng đặc biệt, chẳng hạn như trở thành tế bào thần kinh hoặc tế bào cơ.

Những thay đổi (đột biến) trong gen có thể khiến các hoạt động bình thường trong các tế bào bị phá vỡ. Khi điều này xảy ra, các tế bào không chết khi cần và các tế bào mới được tạo ra khi cơ thể không cần chúng. Sự tích tụ của các tế bào này có thể khiến một khối u hình thành.

Các yếu tố rủi ro làm tăng nguy cơ bị ung thư

phòng chống ung thư

Các yếu tố được biết là làm tăng nguy cơ ung thư:

  • Hút thuốc lá
  • Nhiễm trùng
  • Sự bức xạ
  • Thuốc ức chế miễn dịch sau ghép tạng

Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư:

  • Chế độ ăn
  • Rượu
  • Hoạt động thể chất
  • Béo phì
  • Bệnh tiểu đường
  • Các yếu tố rủi ro từ môi trường

Các nhà khoa học nghiên cứu các yếu tố nguy cơ và các yếu tố bảo vệ để tìm cách ngăn ngừa ung thư. Bất cứ điều gì làm tăng cơ hội phát triển ung thư được gọi là yếu tố nguy cơ (hay còn gọi là tác nhân gây ung thư), bất cứ điều gì làm giảm cơ hội phát triển ung thư được gọi là yếu tố bảo vệ.

Một số yếu tố nguy cơ ung thư có thể tránh được nhưng nhiều yếu tố không thể tránh. Ví dụ, cả hút thuốc và di truyền một số gen nhất định đều là các yếu tố nguy cơ đối với một số loại ung thư, nhưng chỉ có thể tránh hút thuốc. Các yếu tố nguy cơ mà một người có thể kiểm soát được gọi là các yếu tố nguy cơ có thể sửa đổi.

Nhiều yếu tố khác trong môi trường, chế độ ăn uống và lối sống của chúng ta có thể gây ra hoặc ngăn ngừa ung thư.

Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư:

Hút thuốc và sử dụng thuốc lá

Sử dụng thuốc lá có liên quan chặt chẽ đến việc tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư. Hút thuốc lá là nguyên nhân hàng đầu của các loại ung thư sau đây:

  • Bệnh bạch cầu tủy cấp (AML).
  • Ung thư bàng quang.
  • Ung thư cổ tử cung.
  • Ung thư thực quản.
  • Ung thư thận.
  • Ung thư phổi.
  • Ung thư khoang miệng.
  • Ung thư tuyến tụy.
  • Ung thư dạ dày.

Không hút thuốc hoặc bỏ hút thuốc làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư và chết vì ung thư. Các nhà khoa học cho rằng hút thuốc lá gây ra khoảng 30% tổng số ca tử vong do ung thư ở Hoa Kỳ.

Nhiễm trùng

Một số virus và vi khuẩn có thể gây ung thư. Virus và các tác nhân gây nhiễm trùng khác gây ra nhiều trường hợp ung thư ở các nước đang phát triển (khoảng 1 trên 4 trường hợp ung thư) so với các quốc gia phát triển (ít hơn 1 trên 10 trường hợp ung thư). Ví dụ về virus và vi khuẩn gây ung thư bao gồm:

  • Papillomavirus ở người (HPV) làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư cổ tử cung, dương vật, âm đạo, hậu môn và hầu họng
  • Virus viêm gan B và virus viêm gan C làm tăng nguy cơ ung thư gan
  • Virus Epstein-Barr làm tăng nguy cơ mắc ung thư hạch Burkitt
  • Helicobacter pylori làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày

Hai loại vắc-xin để ngăn ngừa nhiễm trùng bởi các tác nhân gây ung thư đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) phát triển và phê duyệt. Một là vắc-xin để ngăn ngừa nhiễm vi-rút viêm gan B. Hai là vắc-xin phòng HPV gây ung thư cổ tử cung. Các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu vắc-xin chống ung thư.

Bức xạ tia cực tím từ ánh sáng mặt trời

Đây là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung thư da. Bức xạ ion hóa bao gồm:

  • Bức xạ y tế từ các xét nghiệm để chẩn đoán ung thư như chụp X-quang, chụp CT, soi huỳnh quang và xạ hình.
  • Khí radon trong nhà.

Các nhà khoa học cho rằng bức xạ ion hóa gây ra bệnh bạch cầu, ung thư tuyến giáp và ung thư vú ở phụ nữ. Bức xạ ion hóa cũng có thể liên quan với u tủy, ung thư phổi, dạ dày, đại tràng, thực quản, bàng quang và buồng trứng. Tiếp xúc với bức xạ từ tia X làm tăng nguy cơ ung thư ở bệnh nhân và kỹ thuật viên X-quang.

Chụp CT ngày càng nhiều trong 20 năm qua đã làm tăng mức độ tiếp xúc với bức xạ ion hóa. Nguy cơ ung thư cũng tăng theo số lần chụp CT của bệnh nhân và liều xạ trị được sử dụng mỗi lần.

Thuốc ức chế miễn dịch sau ghép tạng

Thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng sau khi tạng được cấy ghép từ người này sang người khác. Những loại thuốc này ngăn chặn sự đào thải của cơ thể với cơ quan khác lạ. Những loại thuốc này làm giảm phản ứng miễn dịch của cơ thể để giúp cơ quan mới không bị đào thải.

Thuốc ức chế miễn dịch có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư vì chúng làm giảm khả năng ngăn ngừa ung thư của cơ thể. Nguy cơ ung thư, đặc biệt là ung thư do virus gây ra cao hơn trong 6 tháng đầu sau ghép tạng và nguy cơ này kéo dài trong nhiều năm.

Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc ung thư:

Chế độ ăn

Các loại thực phẩm mà bạn ăn một cách thường xuyên tạo nên chế độ ăn uống. Chế độ ăn uống đang được nghiên cứu là một yếu tố nguy cơ ung thư. Thật khó để nghiên cứu ảnh hưởng của chế độ ăn uống đối với bệnh ung thư vì chế độ ăn uống của một người bao gồm các loại thực phẩm có thể bảo vệ và cả loại thực phẩm làm tăng nguy cơ ung thư.

Những người tham gia vào nghiên cứu cũng khó theo dõi những gì họ ăn trong một thời gian dài. Điều này có thể giải thích tại sao các nghiên cứu có kết quả khác nhau về cách chế độ ăn uống ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư.

Một số nghiên cứu cho thấy ăn trái cây, rau quả và không có tinh bột có thể bảo vệ chống lại ung thư miệng, thực quản và dạ dày. Trái cây cũng có thể bảo vệ chống ung thư phổi.

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế độ ăn nhiều chất béo, protein, calo và thịt đỏ làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng nhưng các nghiên cứu khác không cho thấy điều này.

Người ta không biết nếu chế độ ăn ít chất béo và nhiều chất xơ, trái cây và rau quả có làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng không.

Rượu

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng uống rượu có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các loại ung thư sau đây:

  • Ung thư miệng
  • Ung thư thực quản
  • Ung thư vú
  • Ung thư đại trực tràng (ở nam giới)
  • Uống rượu cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan và ung thư đại trực tràng ở nữ

Ít hoạt động thể chất

Các nghiên cứu cho thấy những người hoạt động thể chất có nguy cơ mắc một số bệnh ung thư thấp hơn so với những người không tập thể dục. Các nghiên cứu cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa hoạt động thể chất và nguy cơ ung thư đại trực tràng thấp hơn. Một số nghiên cứu cho thấy hoạt động thể chất bảo vệ chống lại ung thư vú sau mãn kinh và ung thư nội mạc tử cung.

Béo phì

Các nghiên cứu cho thấy béo phì có liên quan đến nguy cơ mắc các loại ung thư sau:

  • Ung thư vú sau mãn kinh.
  • Ung thư đại trực tràng.
  • Ung thư nội mạc tử cung.
  • Ung thư thực quản.
  • Ung thư thận.
  • Ung thư tuyến tụy.

Một số nghiên cứu cho thấy béo phì cũng là một yếu tố nguy cơ gây ung thư túi mật và ung thư gan.

Người ta cho rằng giảm cân làm giảm nguy cơ ung thư có liên quan đến béo phì mặc dù cần nhiều nghiên cứu hơn để khẳng định.

Bệnh tiểu đường

Một số nghiên cứu cho thấy mắc bệnh tiểu đường có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc các loại ung thư sau:

  • Ung thư bàng quang.
  • Ung thư vú ở phụ nữ.
  • Ung thư đại trực tràng.
  • Ung thư nội mạc tử cung.
  • Ung thư gan.
  • Ung thư phổi.
  • Ung thư miệng.
  • Ung thư bạch cầu.
  • Ung thư buồng trứng.
  • Bệnh ung thư tuyến tụy.

Bệnh tiểu đường và ung thư có chung một số yếu tố nguy cơ. Những yếu tố rủi ro này bao gồm:

  • Cao tuổi
  • Béo phì
  • Hút thuốc
  • Chế độ ăn uống không lành mạnh
  • Không tập thể dục

Bởi vì bệnh tiểu đường và ung thư có chung các yếu tố nguy cơ này nên thật khó để biết liệu nguy cơ ung thư được tăng thêm bởi bệnh tiểu đường hay bởi các yếu tố nguy cơ này.

Các nghiên cứu đang được thực hiện để xem thuốc được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư như thế nào.

Các yếu tố rủi ro môi trường

Tiếp xúc với hóa chất và các chất khác trong môi trường có liên quan đến một số bệnh ung thư:

  • Liên hệ giữa ô nhiễm không khí và nguy cơ ung thư đã được tìm thấy. Chúng bao gồm các mối liên quan giữa ung thư phổi và khói thuốc lá, ô nhiễm không khí ngoài trời và amiăng.
  • Uống nước có chứa một lượng lớn asen có liên quan đến ung thư da, bàng quang và phổi.

Các nghiên cứu đã được thực hiện để xem liệu thuốc trừ sâu và các chất ô nhiễm khác làm tăng nguy cơ ung thư không? Kết quả của những nghiên cứu này chưa rõ ràng vì các yếu tố khác có thể thay đổi kết quả của các nghiên cứu.

Làm thế nào để giảm nguy cơ mắc ung thư?

Hóa trị đang được nghiên cứu ở những bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư cao

Hóa trị là sử dụng các hóa chất để giảm nguy cơ ung thư hoặc giữ cho nó không tái phát. Các chất có thể là tự nhiên hoặc được tạo ra trong phòng thí nghiệm. Một số tác nhân hóa học được thử nghiệm ở những người có nguy cơ cao mắc một loại ung thư nhất định. Nguy cơ có thể là do tình trạng tiền ung thư, tiền sử gia đình hoặc các yếu tố lối sống.

Dùng một trong những tác nhân sau có thể làm giảm nguy cơ ung thư:

  • Các bộ điều biến thụ thể estrogen chọn lọc (SERMS) như tamoxifen hoặc raloxifene đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ có nguy cơ cao. SERMS có thể gây ra tác dụng phụ, chẳng hạn như bốc hỏa, vì vậy chúng thường không được sử dụng để phòng ngừa ung thư.
  • Finasteride đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
  • Thuốc ức chế COX-2 có thể ngăn ngừa ung thư đại tràng và ung thư vú. Thuốc ức chế COX-2 có thể gây ra các vấn đề về tim. Bởi vì các chất ức chế COX-2 có thể gây ra các vấn đề về tim nên chưa có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng chúng để ngăn ngừa ung thư.
  • Aspirin có thể ngăn ngừa ung thư đại trực tràng. Tác dụng phụ của aspirin có thể gây xuất huyết tiêu hóa hoặc xuất huyết não. Bởi vì aspirin có thể gây ra vấn đề chảy máu nên chưa có nhiều nghiên cứu về việc sử dụng chúng để ngăn ngừa ung thư.

Các biện pháp can thiệp khác để giảm nguy cơ ung thư

Không đủ bằng chứng cho thấy việc bổ sung vitamin tổng hợp, khoáng chất hoặc vitamin hoặc khoáng chất đơn lẻ có thể ngăn ngừa ung thư. Các vitamin và khoáng chất bổ sung sau đây đã được nghiên cứu, nhưng chưa được chứng minh là làm giảm nguy cơ ung thư:

  • Vitamin B6
  • Vitamin B12
  • Vitamin E
  • Vitamin C
  • Beta carotene
  • Axit folic
  • Selen
  • Vitamin D

Thử nghiệm phòng chống ung thư bằng Selen và Vitamin E (SELECT) cho thấy vitamin E uống đơn độc làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Nguy cơ tiếp tục ngay cả sau khi những người đàn ông ngừng dùng vitamin E. Uống selen với vitamin E hoặc uống selen một mình không làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.

Vitamin D cũng đã được nghiên cứu để xem nó có tác dụng chống ung thư hay không. Da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời có thể tạo ra vitamin D. Vitamin D cũng có thể được tiêu thụ trong chế độ ăn hàng ngày và trong chế độ ăn uống bổ sung. Uống vitamin D với liều từ 400-1100 IU / ngày chưa được chứng minh là làm giảm hoặc tăng nguy cơ ung thư.

VITamin D và BrilliantA-3 TriaL (VITAL) đang được nghiên cứu xem việc dùng vitamin D (2000 IU / ngày) và axit béo omega-3 từ nguồn cá biển (dầu cá) có làm giảm nguy cơ ung thư hay không.

Nghiên cứu từ Heath and Doctor cho thấy những người đàn ông có tiền sử bị ung thư và uống vitamin tổng hợp hàng ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư tái phát.

Một số lời khuyên giúp ngăn ngừa ung thư

Bạn nên thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh và tập luyện thể thao hàng ngày để tránh tối đa các bệnh tật nói chung cũng như ung thư nói riêng. Một số lời khuyên cho vấn đề này là:

Ăn ít các thực phẩm giàu chất béo

Nên ăn ít thực phẩm có chứa chất béo như thịt, mỡ hoặc nội tạng động vật và những thức ăn dễ làm cho người bị béo, gần một nửa số người có cân nặng hơn bình thường dễ bị mắc ung thư.

Công thức tính chỉ số cơ thể (BMI) = trọng lượng cơ thể (kg)/ chiều cao bình phương (m) = 22 là con số tiêu chuẩn giúp bạn biết bạn có đang béo phì không. Dưới 18 là gầy, 18 đến 20 là hơi gầy, 20 đến 24 như bình thường, 24 đến 26 hơi béo, hơn 26 là béo phì.

Không ăn thức ăn cháy thành than và mốc

Bởi vì khi protein cháy thành than sẽ có chứa chất độc hại, thức ăn mốc có chứa aflatoxin – một chất gây ung thư mạnh. Lạc, ngô, đậu nành, dầu mỡ và các loại thực phẩm dễ bị nấm mốc thường chứa một lượng lớn aflatoxin.

Thường xuyên ăn nhiều rau lá xanh, củ quả tươi

Những món ăn như cần tây, rau diếp, cà rốt, trái cây, nấm, những thực phẩm giúp tăng cường vitamin, chất xơ sẽ ức chế sự gia tăng của các tế bào ung thư và giảm sự xuất hiện của ung thư đại trực tràng.

Ăn nhiều thực phẩm có chứa vitamin A và B

Gan, trứng, sữa và cà rốt – những thực phẩm giàu vitamin A và B có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư phổi.

Hạn chế ăn thức ăn chế biến sẵn, các món muối chua

Bởi vì các loại thịt chế biến sẵn hoặc đồ ăn làm sẵn thường chứa nitrit, thực phẩm xông khói. Các món muối chua hay các món quá mặn có thể dễ dàng dẫn đến ung thư thực quản và ung thư dạ dày.

Kiểm soát thích hợp lượng calo ăn vào

Ăn uống vừa đủ có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh ung thư trực tràng.

Bồi dưỡng, tẩm bổ hợp lý

Ăn nhiều thuốc bổ hay thực phẩm bổ dưỡng có thể cải thiện khả năng miễn dịch của con người. Nhân sâm, sữa ong chúa, đông trùng hạ thảo là những loại thảo dược có tác dụng ức chế ung thư.

Không ăn thức ăn quá nóng

Ăn chế độ ăn nóng dễ gây ung thư thực quản và đường tiêu hóa trên.

Sử dụng ít gia vị cay

Tiêu thụ quá nhiều các loại thực phẩm chứa vị cay nóng chẳng hạn như thịt chế biến cay, hồi hương, hạt hoa tiêu… có thể thúc đẩy sự gia tăng của các tế bào ung thư và đẩy nhanh bệnh ung thư ác tính hóa.

Đa dạng hóa chế độ ăn uống, không nên ăn khảnh, đơn điệu

Nếu ăn uống đơn điệu, không đa dạng thực phẩm, thích ăn món nào chỉ ăn những món đó có thể gây ra thiếu hụt vitamin và nguyên tố vi lượng, rất dễ gây ung thư.

Không hút thuốc, ít uống rượu

Bởi vì thuốc lá có chứa chất gây ung thư, chúng có thể dễ dàng gây ung thư phổi và ung thư dạ dày. Uống rượu hoặc uống rượu lâu dài có thể gây ung thư miệng, ung thư thực quản, ung thư dạ dày và ung thư gan. Không nên uống rượu nếu bạn đã bị viêm gan B.

Tránh hoặc giảm thiểu hít phải khí bất thường

Những loại khí độc, khí lạ trong nhiều trường hợp có thể gây ung thư.

Uống một số thích hợp thuốc vitamin A, C, E và thực phẩm có chứa nhiều vitamin

Bởi vì các vitamin này có tác dụng chống ung thư. Tuy nhiên, không nên sử dụng quá mức để ngăn ngừa tác dụng phụ.

Tránh uống nước trà để qua đêm

Mặc dù trà là đồ uống có tác dụng phòng chống ung thư, nhưng nếu để nước trà qua đêm sẽ dễ bị ô nhiễm, thiu hỏng hoặc chứa chất gây ung thư axit nitrous. Vì vậy lời khuyên tốt nhất là không nên uống nước trà đã để qua đêm.

Nên ăn thực phẩm chống ung thư thường xuyên

Nghiên cứu khoa học hiện đại đã chứng minh rằng nhiều loại thực phẩm tự nhiên có chứa thành phần chống ung thư. Một số được sử dụng trong các loại thuốc chống ung thư sau khi thanh lọc, chứa nhiều yếu tố vi lượng chống ung thư như interferon và alkaloids.

Hãy cẩn thận khi thấy các dấu hiệu bất thường sau:

  • Thói quen đi ngoài thay đổi, tính chất phân và hình dạng phân thay đổi: Chẳng hạn như tiêu chảy, táo bón, đi ngoài có máu trong phân, hình dạng phân trở nên mỏng hơn và những bất thường khác.
  • Thói quen tiểu tiện và màu sắc nước tiểu thay đổi: Chẳng hạn như bài tiết kém, nước tiểu có lưu lượng thất thường, đi tiểu đau, đi tiểu nhiều lần, tiểu cấp bách, đau bụng, đau lưng dưới, tiểu máu và các triệu chứng liên quan khác.
  • Chảy máu bất thường hoặc ra các loại dịch vẩy, chất cặn bã: Chẳng hạn như nước tiểu có máu, ho ra máu, chảy máu không rõ lý do, phụ nữ mãn kinh bị chảy máu âm đạo, có chất thải bất thường ở bất kỳ bộ phận nào, đặc biệt là những thứ có mùi hôi thối.
  • Vú hoặc các bộ phận khác có nốt sần, nổi cục hoặc thậm chí còn xuất hiện cục u nhỏ như hạt đậu xanh.
  • Không thể kiểm soát các cơn ho và hiện tượng bị khàn giọng mà không thể thuyên giảm.
  • Các vùng da hoặc nốt ruồi đột nhiên thay đổi tình trạng ban đầu của nó, tăng trưởng nhanh chóng, đặc biệt là bề mặt da xuất hiện dấu hiệu bong tróc hay chảy máu hoặc tiết các chất thải sưng thối.
  • Xuất hiện các vết loét một phần hoặc lan rộng nhưng không thể chữa khỏi được, đặc biệt là những người có xu hướng chảy máu, tiết dịch và đờm.
  • Khó tiêu, giảm cân, đầy bụng, đau tại một vùng cố định, nuốt khó chịu, thở kém và những dấu hiệu tương tự.
  • Chán ăn không rõ nguyên nhân, mệt mỏi, bồn chồn, khó chịu, giảm hứng thú, thay đổi tính khí, rối loạn tâm thần và những triệu chứng tương tự.

Xem thêm: Triệu chứng ung thư, chẩn đoán, giai đoạn và tiên lượng ung thư

Vài điều về tác giá

Dr. Hung

Thích viết, đam mê chia sẻ kiến thức đến cộng đồng và mong muốn mọi người đều có kiến thức cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như người thân. Ngoài ra còn thích nghe nhạc trữ tình, làm đồ handmade...

Leave a Comment