Ung thư

Ung thư trực tràng: Nguyên nhân, triệu chứng, điều trị và phòng ngừa

Ung thư trực tràng là căn bệnh ung thư đứng hàng thứ ba sau ung thư dạ dày và ung thư đại tràng.

Bệnh ung thư trực tràng, là một trong những loại u ác tính thường gặp, lứa tuổi từ 40-50 có khả năng mắc bệnh khá cao. Theo khảo sát, cả thế giới mỗi năm có khoảng 8.000.000 ca mắc bệnh mới, chiếm tới 10-15% các loại u ác tính. Nam giới có nguy cơ mắc cao hơn nữ giới, tỷ lệ là 2:1.

Ung thư trực tràng là gì?

Ung thư trực tràng

Trực tràng là đoạn 15-16 cm cuối của đường tiêu hóa, gồm 2 đoạn: chậu hông và đáy chậu (ống hậu môn). Hệ thống tiêu hóa lấy các chất dinh dưỡng (vitamin, khoáng chất, carbohydrate, chất béo, protein và nước) từ thực phẩm và giúp loại bỏ chất thải ra khỏi cơ thể. Hệ thống tiêu hóa bao gồm thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già. Đại tràng là phần đầu của ruột già và có chiều dài khoảng 1,4m. Trực tràng là phần cuối của ruột già.

Ung thư trực tràng là một bệnh trong đó các tế bào ác tính hình thành trong các mô của trực tràng – do sự phát triển và phân chia một cách mất kiểm soát của các tế bào. Căn bệnh này có nguồn gốc từ những khối u nhỏ, lành tính xuất hiện từ các thành trong của ruột già. Nếu không nội soi và loại bỏ ngay, khối u lành có thể phát triển thành u trực tràng ác tính. Theo thời gian, các mô khỏe mạnh bên cạnh khối u sẽ bị xâm nhập, gây ra nhiều biến chứng.

Các loại ung thư trực tràng

Ung thư trực tràng được chia ra 3 vị trí, có liên quan đến cách thức mổ và lấy hạch:

  1. Ung thư trên bóng: Khối u ở trên túi cùng Douglas cách hậu môn 12 – 15 cm, chỉ phân biệt được bằng nội soi.
  2. Ung thư ở bóng: Thường gặp nhất chiếm 2/3 tổng số, ung thư cách rìa hậu môn 4 – 11 cm.
  3. Ung thư hậu môn: Cách rìa hậu môn 3 -4 cm có đặc điểm riêng về tổ chức học. Cảm thụ tốt với tia.

Nguyên nhân ung thư trực tràng hay yếu tố nguy cơ gây bệnh

Bất cứ điều gì làm tăng khả năng mắc bệnh của bạn được gọi là yếu tố nguy cơ hay yếu tố rủi ro. Có một yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư; không có các yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư. Trao đổi với bác sĩ nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể có nguy cơ bị ung thư đại trực tràng.

Các yếu tố nguy cơ ung thư trực tràng bao gồm:

Tuổi

Phần lớn những người bị ung thư trực tràng là 60 tuổi trở lên. Nguy cơ ngày càng tăng theo độ tuổi và thường bắt đầu ở tuổi 50, ở nam nhiều hơn nữ.

Viêm đường ruột

Bệnh viêm đại trực tràng mạn, chẳng hạn như viêm loét đại trực tràng và bệnh Crohn, có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư trực tràng

Tiền sử gia đình

Có nhiều khả năng phát triển khối u hay ung thư trực tràng nếu có cha mẹ, anh chị em ruột hoặc con mắc căn bệnh này. Nếu nhiều thành viên trong gia đình bị bệnh, nguy cơ của bạn sẽ cao hơn.

Trong một số trường hợp, mối liên quan này không phải là cha truyền con nối hoặc di truyền. Ví dụ, bệnh ung thư trong cùng một gia đình có thể do cùng tiếp xúc với một chất gây ung thư trong môi trường hoặc từ chế độ ăn tương tự hoặc các yếu tố lối sống.

Hút thuốc lá và uống rượu

Hút thuốc làm tăng đáng kể nguy cơ u trực tràng và ung thư trực tràng. Người hút thuốc có khả năng phát triển ung thư trực tràng cao hơn so với người không hút thuốc. Uống quá nhiều rượu, đặc biệt là bia, làm tăng khả năng phát triển u trực tràng. Nếu hút thuốc và uống rượu, nguy cơ tăng nhiều hơn.

Lối sống ít vận động

Nếu không hoạt động, bạn có nhiều khả năng phát triển ung thư đại trực tràng. Điều này có thể vì khi không hoạt động, thời gian chất thải ở lại trong ruột già dài hơn.

Thừa cân hoặc béo phì

Thừa cân hoặc béo phì có liên quan đến tăng nguy cơ mắc một số loại ung thư, bao gồm cả ung thư đại-trực tràng.

Chủng tộc

Người da đen có nguy cơ cao phát triển ung thư đại – trực tràng.

Thừa kế gen đột biến

Một yếu tố nguy cơ của u trực tràng là đột biến di truyền. Một tỷ lệ nhỏ các bệnh ung thư trực tràng là kết quả của đột biến gen. Một số bệnh ung thư do nhiễm sắc thể thường chi phối, có nghĩa là phải kế thừa một gen khiếm khuyết từ cha hoặc mẹ. Nếu cha hoặc mẹ có gen đột biến, bạn có 50% kế thừa gen đột biến này. Mặc dù kế thừa một gen khiếm khuyết làm tăng nguy cơ rất nhiều nhưng không phải tất cả mọi người mang gen đột biến đều phát triển bệnh ung thư.

Polyp u tuyến mang tính gia đình (FAP)

Đây là một rối loạn di truyền hiếm gặp, gây phát triển hàng trăm, thậm chí hàng ngàn khối u trong niêm mạc ruột già vào những năm đầu tuổi thiếu niên. Nếu không được điều trị, nguy cơ phát triển ung thư ruột già gần như 100%, thường là trước tuổi 40. Các tin tức đáng khích lệ về polyp u tuyến mang tính gia đình là trong một số trường hợp, xét nghiệm di truyền có thể giúp xác định xem có nguy cơ mắc bệnh không. Những người có polyp u tuyến mang tính gia đình cũng có nguy cơ bị ung thư ruột non, đặc biệt là ở tá tràng.

Hội chứng Gardner

Hội chứng này ít gặp hơn, là một biến thể của polyp u tuyến mang tính gia đình. Tình trạng này gây ra khối u phát triển trong ruột già và ruột non. Cũng có thể phát triển các khối u không ung thư hóa ở các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm cả da (u nang bã nhờn và lipomas), xương và bụng.

Đa polyp

Tình trạng này cũng tương tự như polyp u tuyến mang tính gia đình. Những người có khối u thường phát triển đa polyp u tuyến và ung thư ruột già ở độ tuổi trẻ, chẳng hạn như ở tuổi 20. Đây là một căn bệnh mới được phát hiện. Xét nghiệm di truyền có thể giúp xác định xem có nguy cơ bị đa polyp không, bệnh gây ra bởi đột biến ở gen MYH.

Hội chứng Lynch

Hội chứng này, còn gọi là ung thư đại trực tràng di truyền không polyp (HNPCC) – là hình thức phổ biến nhất của ung thư đại trực tràng di truyền. Những người có hội chứng Lynch ít có xu hướng phát triển các khối u trực tràng, nhưng những khối u có thể nhanh chóng trở thành ác tính. Hoặc những người có hội chứng Lynch có thể có khối u ở các cơ quan khác, bao gồm vú, dạ dày, ruột, đường tiết niệu và buồng trứng, cũng như trong trực tràng.

Triệu chứng ung thư trực tràng

Triệu chứng của ung thư trực tràng bao gồm thay đổi thói quen đại tiện hoặc có máu trong phân. Những dấu hiệu này có thể được gây ra bởi ung thư trực tràng hoặc do các bệnh khác. Hãy đi khám bác sĩ ngay nếu bạn có bất kỳ triệu chứng sau đây:

Rối loạn tiêu hóa kéo dài

Bệnh ung thư đại trực tràng có biểu hiện ở mọi bộ phận liên quan đến đường tiêu hóa. Một số dấu hiệu thường gặp như hơi thở hôi, hay ợ hơi, ợ chua, đau tức vùng bụng trước hoặc sau khi ăn. Đau quặn bụng, đau râm ran là biểu hiện của rối loạn tiêu hóa do nhiễm khuẩn. Song một vài trường hợp, nó báo hiệu sự tồn tại của các khối u ở dạ dày – ruột.

Chán ăn, khó tiêu, đầy trướng bụng trên vùng rốn, ăn không ngon là tình trạng thường thấy ở người bệnh ung thư trực tràng. Tình trạng này kéo dài khiến cơ thể mệt mỏi, sút cân. Người bị ung thư đại trực tràng bị rối loạn tiêu hóa, đi ngoài nhiều lần trong ngày rất giống với triệu chứng bệnh lị. Tuy nhiên, người mắc bệnh lị có thể điều trị bằng cách dùng kháng sinh, còn loại thuốc này không có tác dụng với bệnh nhân ung thư đại trực tràng.

Giảm cân bất thường

Không phải do tập luyện hay ăn kiêng giảm cân mà cơ thể đột ngột sút cân thì bạn cũng không nên coi thường. Rất có thể đó là dấu hiệu của ung thư, nhất là ung thư trực tràng, dạ dày hoặc các bộ phận khác liên quan đến đường tiêu hóa.

Các rối loạn liên quan đến bài tiết phân

Trực tràng là cơ quan bài tiết phân trong quá trình tiêu hóa, nên ở giai đoạn sớm, người bệnh thường hay bị chứng rối loạn đại tiện, bài tiết phân như đi táo, đi lỏng thất thường, tình trạng này kéo dài. Ung thư đại trực tràng thường khiến người bệnh đau quặn, mót rặn, khó chịu khi đi ngoài. Khi đi đại tiện, người bệnh thường bị đau quặn, mót rặn, phân nhày mũi máu và phân nát, phân hình lá lúa (do phân phải đi qua khối u), đi xong vẫn muốn rặn tiếp.

Phân mỏng, hẹp so với bình thường

Kích thước của chất thải cũng giúp phát hiện những bất thường trong hệ tiêu hóa. Tình trạng phân mỏng rất có thể do một vật cản giống như một khối u khiến phân bị chặn lại. Nếu phân có kích thước mỏng như một chiếc bút chì hoặc có hình lá lúa do phải đi qua khối u thì cần đề cao cảnh giác.

Xuất hiện máu trong phân

Đại tiện kèm máu đỏ tươi, nhỏ giọt, phủ lên phân. Một số trường hợp, ở giai đoạn cuối bệnh nhân còn thấy hậu môn trực tràng sa xuống, toàn thân gầy đi, số lần đại tiện tăng lên, khi táo bón, khi tiêu chảy. Đây là triệu chứng phổ biến của căn bệnh song nó không đồng nghĩa mọi trường hợp phân có máu đều do mắc ung thư trực tràng. Nếu mắc bệnh khác như trĩ, nứt hậu môn bạn cũng gặp hiện tượng trên. Cần phân biệt đại tiện ra máu do trĩ thường là máu tươi. Còn bệnh nhân ung thư trực tràng thường xuất huyết dưới dạng máu lẫn với nhầy. Vì máu chảy ở niêm mạc vùng ung thư có thể bị viêm nên tiết nhầy.

Mệt mỏi và suy nhược

Đây là triệu chứng phổ biến nhất của ung thư nhưng lại dễ bị bỏ qua nhất. Mệt mỏi do ung thư trực tràng thường liên quan đến thiếu máu do mất máu trong phân. Người bệnh cảm thấy kiệt sức ngay cả khi đã nghỉ ngơi, đồng thời suy nhược cơ thể một cách nhanh chóng mà không rõ nguyên nhân.

Các xét nghiệm giúp chẩn đoán ung thư trực tràng

Trước tiên bác sĩ sẽ hỏi bệnh và khám tổng quát, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, chẳng hạn như cục u hoặc bất cứ điều gì khác có vẻ bất thường. Bác sĩ sẽ hỏi bạn về tiền sử bệnh tật, phương pháp điều trị đã sử dụng, các thói quen sinh hoạt hàng ngày, tiền sử bệnh tật gia đình và xung quanh.

Khám lâm sàng: Bác sĩ sẽ thăm khám trực tràng của bạn để kiểm tra khối u hoặc bất cứ thứ gì bất thường. Ở phụ nữ, có thể kiểm tra âm đạo. Khi sờ có thể thấy u cứng, bờ nham nhở, lòng trực tràng bị chít hẹp, dễ chảy máu.

Khi thăm trực tràng sẽ giúp sơ bộ xác định:

  • Vị trí của khối u so với mép hậu môn
  • Khả năng lành tính hay ác tính. Các dấu hiệu nghĩ đến ác tính: nền cứng, sùi, nảy chồi, mủn, mất mềm mại, dễ chảy máu, có máu theo tay, polyp có nền rộng
  • Khối u di động hay cố định
  • Kích thước khối u và khối u chiếm mấy phần chu vi lòng trực tràng

Sau đó bác sĩ sẽ chỉ định một số xét nghiệm để phục vụ chẩn đoán như:

Nội soi đại trực tràng

Bác sĩ kiểm tra trực tràng và phần cuối của đại tràng với một ống nội soi. Sự phát triển tiền ung thư và ung thư trực tràng hoặc phần dưới của đại tràng có thể được tìm thấy hoặc được lấy ra làm sinh thiết. Có thể xác định vị trí, kích thước của u trong trực tràng.

Chụp X Quang

Chụp đại tràng có cản quang thấy hình khối khuyết hay chít hẹp, bờ nham nhở, ngoài ra cho biết vị trí khối u, tình trạng đại tràng phía trên u.

Siêu âm bụng

Giúp đánh giá tình trạng di căn ổ bụng, gan, hạch

Siêu âm qua lòng trực tràng

Giúp đánh giá mức độ xâm lấn của u qua thành trực tràng và các cơ quan lân cận. Siêu âm có thể thấy được các hạch lớn di căn trong mạc treo đại tràng. Đây là kỹ thuật đơn giản, rẻ tiền, không xâm lấn.

Chụp cộng hưởng từ

Chụp CT-scanner

Sinh thiết

Đây là bước quan trọng để chẩn đoán xác định ung thư trực tràng và để xác định giai đoạn của ung thư. Một mẫu mô được lấy từ khối u sẽ được chuyển đến phòng giải phẫu bệnh và quan sát dưới kính hiển vi để xác định đó có phải tế bào ác tính hay không.

Các xét nghiệm sau khi sinh thiết sẽ xác định xem có đột biến gen hay không. Những xét nghiệm được tiến hành gồm:

  • Phản ứng tổng hợp chuỗi phiên mã ngược (RT-PCR): Là thí nghiệm trong đó các tế bào trong mẫu mô được sử dụng hóa chất để xem những thay đổi nhất định trong cấu trúc hoặc chức năng của gen.
  • Hóa mô miễn dịch: Một xét nghiệm sử dụng kháng thể để kiểm tra các kháng nguyên nhất định trong một mẫu mô. Kháng thể thường được liên kết với một chất phóng xạ hoặc thuốc nhuộm làm cho mô sáng lên dưới kính hiển vi. Loại xét nghiệm này có thể được sử dụng để cho biết sự khác biệt giữa các loại ung thư khác nhau.
  • CEA: Một xét nghiệm đo nồng độ CEA trong máu. CEA được giải phóng vào máu từ cả tế bào ung thư và tế bào bình thường. Khi nó cao hơn bình thường, nó có thể là một dấu hiệu của ung thư trực tràng.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và lựa chọn điều trị

Các tiên lượng và lựa chọn điều trị phụ thuộc vào những điều sau đây:

  • Giai đoạn của ung thư
  • Mức độ di căn
  • Vị trí của ung thư.
  • Sức khỏe của bệnh nhân, tuổi tác
  • Ung thư lần đầu hay tái phát

Xét nghiệm giúp phân giai đoạn của ung thư trực tràng

Sau khi chẩn đoán ung thư trực tràng, một số xét nghiệm sẽ được thực hiện để xác định xem các tế bào ung thư đã lan rộng trong trực tràng hay đến các bộ phận khác của cơ thể chưa.

Quá trình được sử dụng để tìm hiểu liệu ung thư đã di căn chưa được gọi là phân giai đoạn. Điều quan trọng là phải biết giai đoạn để lên kế hoạch điều trị.

Các xét nghiệm sau đây có thể được sử dụng để giúp bác sĩ phân giai đoạn:

Chụp X-quang ngực

Nội soi đại trực tràng

Trong quá trình nội soi đại trực tràng, một ống dài linh hoạt (colonoscope) được đưa từ lỗ hậu môn qua toàn bộ đại tràng đến tận manh tràng. Một máy quay phim nhỏ và đèn soi ở đầu của ống, thu được hình ảnh của niêm mạc đại trựctràng được phóng đại trên màn hình màu có độ nét cao, cho phép các bác sĩ xem bên trong của toàn bộ đại tràng và trực tràng.

Nội soi đại trực tràng có thể phát hiện các thương tổn ở đại trực tràng, đặc biệt là những tổn thương có khả năng phát triển thành ung thư ở giai đoạn sớm mà phương pháp X-quang hay siêu âm bụng dễ bỏ sót. Nếu cần thiết, khối u hoặc các loại mô bất thường có thể được cắt bỏ thông qua phạm vi trong quá trình nội soi. Mẫu mô để sinh thiết có thể được thực hiện trong nội soi.

Chụp CT-scanner

Tái hiện cấu trúc bên trong cơ thể, chẳng hạn như bụng, xương chậu hoặc ngực, được chụp từ các góc khác nhau. Có thể tiêm thuốc vào tĩnh mạch hoặc nuốt để giúp các cơ quan hoặc mô hiển thị rõ ràng hơn.

Chụp MRI

Chụp PET (chụp cắt lớp phát xạ positron)

Để tìm các tế bào của khối u ác tính trong cơ thể. Một lượng nhỏ glucose được tiêm vào tĩnh mạch. Máy quét  PET xoay quanh cơ thể và tái hiện hình ảnh về nơi glucose đang được sử dụng trong cơ thể. Các tế bào khối u ác tính xuất hiện sáng hơn trong hình ảnh vì chúng hoạt động nhiều hơn và chiếm nhiều glucose hơn các tế bào bình thường.

Siêu âm qua nội soi

Để kiểm tra trực tràng và các cơ quan lân cận. Một đầu nội soi có cả siêu âm được đưa vào trực tràng và sử dụng sóng siêu âm để tái tạo hình ảnh

Có ba cách mà ung thư lây lan trong cơ thể. Ung thư có thể lây lan qua mô, hệ bạch huyết và máu :

  1. Mô: Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu bằng cách phát triển sang các khu vực lân cận.
  2. Hệ bạch huyết: Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu bằng cách xâm nhập vào hệ thống bạch huyết. Ung thư di chuyển qua các mạch bạch huyết đến các bộ phận khác của cơ thể.
  3. Máu: Ung thư lây lan từ nơi nó bắt đầu bằng cách đi vào máu. Ung thư di chuyển qua các mạch máu đến các bộ phận khác của cơ thể.

Ung thư có thể lây lan từ nơi nó bắt đầu đến các bộ phận khác của cơ thể. Khi ung thư lan sang một bộ phận khác của cơ thể, nó được gọi là di căn. Các tế bào ung thư tách khỏi nơi chúng bắt đầu (khối u nguyên phát ) và đi qua hệ thống bạch huyết hoặc máu.

Khối u di căn là loại ung thư giống như khối u nguyên phát. Ví dụ, nếu ung thư trực tràng lan đến phổi , các tế bào ung thư trong phổi thực sự là tế bào ung thư trực tràng. Bệnh là ung thư trực tràng di căn không phải ung thư phổi.

Các giai đoạn của ung thư trực tràng

Dựa vào hệ thống TNM (Tumor (khối u) – Node (hạch) – Metastasis (sự di căn)), bác sĩ sẽ phân ung thư đại trực tràng thành các giai đoạn thể hiện mức độ phát triển của tế bào ung thư

T (Tumor – khối u)

Đi sau chữ cái T là các chữ cái hoặc chữ số để mô tả mức độ phát triển của khối u ở thành ruột.

  • Tx: Các khối u nguyên phát không đánh giá được.
  • T0: Không có dấu hiệu bệnh ung thư ở đại tràng hoặc trực tràng.
  • Tis: Ung thư biểu mô (ung thư tại chỗ). Tế bào ung thư chỉ nằm trong các tế bào niêm mạc và lớp hạ niêm mạc của đại trực tràng, đó là các lớp trên lớp lót bên trong của đại tràng hoặc trực tràng.
  • T1: Khối u đã tiến tới lớp mô liên kết dưới niêm mạc (lớp submucosa).
  • T2: Khối u đã xâm nhập đến lớp cơ dưới của lớp dưới niêm mạc (lớp muscularis propria).
  • T3: Khối u đã phát triển vào trong lớp thanh mạc.
  • T4a: Khối u đã phát triển thông qua tất cả các lớp của đại tràng.
  • T4b: Khối u đã xâm lấn trực tiếp vào cơ quan cận kề.

N (Node – hạch vùng)

Hạch bạch huyết (lymph node) là cơ quan có kích cỡ bằng hạt đậu nhỏ được phân bố khắp cơ thể, giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. Các hạch bạch huyết gần đại tràng và trực tràng được gọi là hạch bạch huyết khu vực (hạch vùng). Những hạch khác là các hạch bạch huyết xa được tìm thấy ở các bộ phận khác của cơ thể.

  • Nx: Các hạch bạch huyết khu vực không để lượng giá.
  • N0: Không lây lan đến các hạch bạch huyết khu vực.
  • N1a: Tế bào khối u được tìm thấy trong một hạch bạch huyết khu vực.
  • N1b: Tế bào khối u được tìm thấy trong 2-3 hạch vùng.
  • N1c: Khối u đi vào lớp dưới thanh mạc, mạc treo ruột, hoặc nonperitonealized pericolic  hoặc mô quanh trực tràng mà không có di căn hạch vùng.
  • N2a: Tế bào khối u được tìm thấy trong 4-6 hạch vùng.
  • N2b: Tế bào khối u được tìm thấy ≥ 7 hạch bạch huyết khu vực.

M (Metastasis – Di căn xa)

  • Mx: Di căn xa không thể đánh giá được.
  • M1: Không di căn.
  • M1: Ung thư đã lan sang một phần khác của cơ thể vượt ra ngoài đại tràng hoặc trực tràng.
  • M2: Ung thư đã lan rộng đến nhiều hơn một phần của cơ thể khác ngoài đại tràng hoặc trực tràng.

Sau khi đánh giá, bác sĩ sẽ kết luận các giai đoạn của ung thư trực tràng bằng cách kết hợp các phân loại T, N, và M

Giai đoạn 0

Được gọi là ung thư biểu mô tại chỗ. Các tế bào ung thư chỉ có ở niêm mạc, hoặc các lớp lót bên trong trực tràng.

Giai đoạn I

Ung thư đã phát triển xuyên qua lớp niêm mạc và lan xuống lớp dưới niêm mạc hoặc lớp cơ của thành ruột nhưng không lây lan sang các mô hoặc các hạch bạch huyết lân cận (T1 hoặc T2, N0, M0).

Giai đoạn II

Chia làm 3 cấp bậc:

  • Giai đoạn IIa: Ung thư đã phát triển xuyên qua lớp cơ vào lớp thanh mạc của trực tràng nhưng không lan sang các mô lân cận hoặc đến các hạch bạch huyết lân cận (T3, N0, M0).
  • Giai đoạn IIb: Ung thư đã phát triển đến lớp phúc mạc và không lây lan đến các hạch bạch huyết gần đó hoặc ở nơi khác (T4a, N0, M0).
  • Giai đoạn IIc: Khối u đã lan rộng xuyên qua các lớp của trực tràng và phát triển trực tiếp hoặc dính trực tiếp vào các cấu trúc lân cận nhưng không lây lan đến các hạch bạch huyết gần đó hoặc ở nơi khác (T4b, N0, M0).

Giai đoạn III

Tương tự, giai đoạn III cũng chia làm 3 cấp bậc:

Giai đoạn IIIa:

Ung thư đã phát triển đến lớp dưới niêm mạc hoặc lớp cơ của thành ruột và lan rộng sang 1-3 hạch bạch huyết vùng  hoặc đã lan đến các mô gần hạch bạch huyết nhưng chưa di căn sang bộ phận khác (T1 hoặc T2; N1 hoặc N1c, M0). Tế bào ung thư đã lan qua lớp niêm mạc đến lớp dưới niêm. Ung thư đã di căn tới ít nhất 4 nhưng không nhiều hơn 6 hạch bạch huyết lân cận (T1, N2a, M0).

Giai đoạn IIIb:

Khối u đã phát triển qua lớp cơ đến lớp thanh mạc hoặc qua lớp thanh mạc nhưng chưa vào các cơ quan gần đó, đồng thời di căn đến 1 – 3 hạch bạch huyết vùng hoặc đã lan đến các mô gần hạch bạch huyết nhưng chưa di căn xa (T3 hoặc T4a, N1 hoặc N1c, M0).

Ung thư đã lan đến lớp cơ của thành ruột hoặc đến thanh mạc của thành ruột, di căn sang 4-6 hạch bạch huyết lân cận nhưng chưa phát triển đến các cơ quan xa (T2 hoặc T3, N2a, M0).

Ung thư phát triển qua lớp niêm mạc đến lớp dưới niêm mạc hoặc lớp co của thành ruột, lây lan sang ít nhất 7 hạch bạch huyết vùng nhưng chưa di căn xa (T2, N2b, M0).

Giai đoạn IIIc:

Ung thư phát triển qua lớp thanh mạc ruột nhưng chưa lan sang các cơ quan gần đó, đồng thời lây lan sang 4-6 hạch bạch huyết lân cận nhưng chưa di căn xa (T4a, N2a, M0).

Ung thư đã phát triển qua lớp cơ vào lớp thanh mạc của thành ruột và di căn đến 7 hạch bạch huyết lân cận trở lên nhưng chưa di căn xa (T3 hoặc T4a, N2b, M0).

Khối u đã phát triển qua lướp niêm mạc xâm lấn trực tiếp hoặc dính trực tiếp vào cơ quan cận kề, đồng thời có trên 1 hạch bach huyết lân cận nhưng chưa di căn xa (T4b, N1 hoặc N2, M0).

Giai đoạn IV

Chia làm 2 cấp bậc

Giai đoạn IVa:

Ung thư đã phát triển qua tất cả các lớp của thành ruột và xâm lấn sang các hạch bạch huyết vùng; đồng thời di căn đến một phần xa của cơ thể, chẳng hạn như gan hoặc phổi (T bất kỳ, bất kỳ N, M1a).

Giai đoạn IVb:

Ung thư đã di căn ra hơn một phần xa của cơ thể (T bất kỳ, bất kỳ N, M1a).

Tóm lại, bạn có thể hiểu đơn giản như sau:

  • Giai đoạn 0: Ung thư ở giai đoạn rất sớm. Nó chỉ mới xuất hiện ở lớp niêm mạc trên cùng của trực tràng.
  • Giai đoạn I: Ung thư lan rộng ra thành trong của trực tràng.
  • Giai đoạn II: Ung thư đã lan ra bên ngoài trực tràng tới các mô lân cận, nhưng chưa tới hạch.
  • Giai đoạn III: Ung thư đã lan sang các hạch lân cận, nhưng chưa tới các bộ phận khác của cơ thể.
  • Giai đoạn IV: Ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư trực tràng có xu hướng lan tới gan hoặc phổi.
  • Tái phát: Ung thư tái phát có nghĩa là ung thư xuất hiện trở lại sau khi điều trị. Bệnh có thể xuất hiện trở lại ở trực tràng hoặc ở một bộ phận khác trong cơ thể, chẳng hạn như đại tràng, xương chậu, gan hoặc phổi

Các phương pháp điều trị ung thư trực tràng

Có nhiều phương pháp điều trị khác nhau cho bệnh nhân ung thư trực tràng. Một số phương pháp điều trị là tiêu chuẩn (phương pháp điều trị hiện đang được sử dụng), và một số phương pháp đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng. Một thử nghiệm điều trị lâm sàng là một nghiên cứu giúp cải thiện các phương pháp điều trị hiện tại hoặc có được thông tin về các phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân ung thư. Khi các thử nghiệm lâm sàng cho thấy một phương pháp điều trị mới tốt hơn điều trị tiêu chuẩn, phương pháp điều trị mới có thể trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn. Bệnh nhân có thể tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng. Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ sử dụng cho những bệnh nhân chưa bắt đầu điều trị.

Năm loại điều trị tiêu chuẩn được sử dụng gồm:

Phẫu thuật

Phẫu thuật là phương pháp điều trị phổ biến nhất cho tất cả các giai đoạn của ung thư trực tràng. Ung thư được loại bỏ bằng một trong các loại phẫu thuật sau đây:

  • Cắt polyp: Nếu ung thư được tìm thấy trong một polyp, polyp thường được loại bỏ trong khi nội soi
  • Cắt bỏ tại chỗ: Nếu ung thư được tìm thấy ở bề mặt bên trong trực tràng và không lan vào thành trực tràng, bác sĩ sẽ loại bỏ ung thư và một ít mô xung quanh.
  • Cắt bỏ toàn bộ: Nếu ung thư đã lan vào thành trực tràng, phần trực tràng bị ung thư và các mô gần đó sẽ được loại bỏ. Đôi khi các mô giữa trực tràng và thành bụng cũng bị loại bỏ. Các hạch bạch huyết gần trực tràng được loại bỏ và kiểm tra.
  • Đốt sóng cao tần RFA: Bác sĩ sẽ sử dụng đầu dò đặc biệt phát sóng điện từ tiêu diệt tế bào ung thư. Đôi khi đầu dò được đưa trực tiếp qua da và chỉ cần gây tê tại chỗ. Trong một số trường hợp khác, đầu dò được đưa vào thông qua một vết mổ ở bụng. và bệnh nhân sẽ được gây mê trước khi làm
  • Phẫu thuật lạnh: Là phương pháp điều trị sử dụng tuyết nitơ lỏng tại chỗ để phá hủy có kiểm soát các tổ chức bệnh lý. Loại điều trị này còn được gọi là liệu pháp áp lạnh.
  • Nếu ung thư đã lan đến các cơ quan khác gần trực tràng, đại tràng sigma, trực tràng và bàng quang sẽ được cắt bỏ. Ở phụ nữ, cổ tử cung, âm đạo, buồng trứng và các hạch bạch huyết gần đó có thể được loại bỏ. Ở nam giới, tuyến tiền liệt có thể được cắt bỏ.

Sau khi loại bỏ ung thư, bác sĩ phẫu thuật sẽ:

  • Làm anastomosis (khâu các phần còn lại của trực tràng với nhau, khâu trực tràng còn lại vào đại tràng, hoặc khâu đại tràng vào hậu môn ).Trực tràng và một phần của đại tràng được loại bỏ, sau đó nối đại tràng và hậu môn hoặc là
  • Tạo hậu môn nhân tạo: Đối với bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư trực tràng thấp (vị trí khối u cách rìa hậu môn ≤ 5 cm) thì phương pháp phẫu thuật kinh điển đến nay vẫn đang được áp dụng tại các bệnh viện trên toàn quốc. Đó là cắt toàn bộ trực tràng và ống hậu môn đồng thời đưa đại tràng ra thành bụng làm hậu môn nhân tạo vĩnh viễn, hay còn gọi là phương pháp phẫu thuật Miles.

Liệu pháp xạ trị và / hoặc hóa trị liệu có thể được đưa ra trước khi phẫu thuật để thu nhỏ khối u, giúp loại bỏ ung thư dễ dàng hơn và giúp kiểm soát sau phẫu thuật. Điều trị được đưa ra trước khi phẫu thuật được gọi là liệu pháp tân bổ trợ. Sau đó, một số bệnh nhân có thể được xạ trị và / hoặc hóa trị sau phẫu thuật để tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại. Điều trị được đưa ra sau phẫu thuật, để giảm nguy cơ ung thư sẽ quay trở lại, được gọi là liệu pháp bổ trợ.

Xạ trị

Xạ trị là phương pháp điều trị ung thư sử dụng tia X năng lượng cao hoặc các loại phóng xạ khác để tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn chúng phát triển. Có hai loại xạ trị:

  • Xạ trị bên ngoài sử dụng một máy bên ngoài cơ thể để phóng bức xạ về phía ung thư.
  • Xạ trị bên trong là dùng một vật chứa chất phóng xạ sẽ được đặt vào bên trong khối u hoặc bên trong khoang của cơ thể gần với khối u. Ưu điểm của phương pháp này là có thể truyền một liều xạ lớn đến một vùng nhỏ. Nó hữu ích trong những trường hợp cần liều xạ cao hoặc liều xạ cao hơn mức chịu dựng của những mô bình thường nếu được đưa vào từ bên ngoài.

Cách thức xạ trị được sử dụng tùy thuộc vào loại và giai đoạn ung thư được điều trị. Xạ trị ngoài được sử dụng để điều trị ung thư trực tràng.

Hóa trị

Hóa trị có thể được sử dụng sau phẫu thuật trong những trường hợp nhất định. Các quyết định thêm liệu pháp hóa trị trong quá trình điều trị bệnh ung thư đại tràng phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh.

Hóa trị là dùng thuốc bằng đường tiêm truyền hoặc uống để diệt tế bào ung thư. Các thuốc này vào máu và đi khắp cơ thể vì thế phương pháp này có lợi thế cho trường hợp ung thư đã phát triển mạnh.

Nhược điểm của hóa trị là những hóa chất diệt tế bào ung thư làm tổn hại đến các tế bào bình thường gây ra các tác dụng ngoại ý. Điều này phụ thuộc vào loại thuốc, liều lượng và thời gian dùng thuốc.

Ngoài ra, người bệnh có thể gặp phải một số tác dụng phụ như tiêu chảy, buồn nôn và ói mửa, chán ăn, rụng tóc, phù và nổi mẩn ở chân tay, đau họng, dễ nhiềm trùng, mệt mỏi…

Cách thức hóa trị được đưa ra tùy thuộc vào loại và giai đoạn ung thư được điều trị.

Liệu pháp trúng đích

Liệu pháp trúng đích là một loại điều trị sử dụng thuốc hoặc các chất khác để xác định và tấn công các tế bào ung thư cụ thể mà không gây hại cho các tế bào bình thường.

Các loại trị liệu trúng đích được sử dụng trong điều trị ung thư đại trực tràng bao gồm:

Kháng thể đơn dòng

Kháng thể đơn dòng được tạo ra trong phòng thí nghiệm từ một loại tế bào của hệ thống miễn dịch . Những kháng thể này có thể xác định các chất trên tế bào ung thư hoặc các chất bình thường có thể giúp các tế bào ung thư phát triển. Các kháng thể gắn vào các chất và tiêu diệt các tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển của chúng hoặc giữ cho chúng không lan rộng. Kháng thể đơn dòng sử dụng theo đường tiêm truyền. Chúng có thể được sử dụng một mình hoặc để mang thuốc, chất độc hoặc chất phóng xạ trực tiếp đến các tế bào ung thư.

Có nhiều loại khác nhau của liệu pháp kháng thể đơn dòng:

  • Liệu pháp ức chế yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF): Tế bào ung thư tạo ra một chất gọi là VEGF , khiến các mạch máu mới hình thành và giúp ung thư phát triển. Các chất ức chế VEGF ngăn chặn ngăn chặn các mạch máu mới hình thành. Điều này có thể tiêu diệt các tế bào ung thư vì chúng cần các mạch máu mới để phát triển. Bevacizumab và ramucirumab là chất ức chế VEGF và chất ức chế sự hình thành mạch
  • EGFR : EGFRs là protein được tìm thấy trên bề mặt của tế bào nhất định, kể cả tế bào ung thư. Yếu tố tăng trưởng biểu bì gắn vào EGFR trên bề mặt tế bào và khiến các tế bào phát triển và phân chia. Các chất ức chế EGFR ngăn chặn thụ thể và ngăn chặn yếu tố tăng trưởng biểu bì bám vào tế bào ung thư. Điều này ngăn chặn tế bào ung thư phát triển và phân chia. Cetuximab và panitumumab là những chất ức chế EGFR.
  • Liệu pháp ức chế điểm kiểm soát miễn dịch : PD-1 là một protein trên bề mặt tế bào T giúp kiểm soát các phản ứng miễn dịch của cơ thể . Khi PD-1 gắn vào một protein khác gọi là PDL-1 trên tế bào ung thư, nó ngăn không cho tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Các chất ức chế PD-1 gắn vào PDL-1 và cho phép các tế bào T tiêu diệt tế bào ung thư. Pembrolizumab là một loại thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch.
  • Thuốc ức chế sự hình thành mạch: Thuốc ức chế sự hình thành mạch ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu mới mà khối u cần phát triển, bao gồm Ziv-aflibercept và Regorafenib.

Thử nghiệm lâm sàng

Đối với một số bệnh nhân, tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể là lựa chọn điều trị tốt nhất. Thử nghiệm lâm sàng là một phần của quá trình nghiên cứu ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện để tìm hiểu xem phương pháp điều trị ung thư mới có an toàn và hiệu quả hay tốt hơn so với điều trị chuẩn.

Nhiều phương pháp điều trị ung thư tiêu chuẩn ngày nay dựa trên các thử nghiệm lâm sàng trước đó. Bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể được điều trị theo tiêu chuẩn hoặc là một trong những người đầu tiên được điều trị theo phương pháp mới.

Bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng cũng giúp cải thiện cách điều trị ung thư trong tương lai. Ngay cả khi các thử nghiệm lâm sàng không dẫn đến các phương pháp điều trị mới hiệu quả, vẫn có những thông tin quan trọng sẽ thu nhận được và giúp tiến hành nghiên cứu trong tương lai

Bệnh nhân có thể tham gia các thử nghiệm lâm sàng trước, trong hoặc sau khi bắt đầu điều trị ung thư.

Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ áp dụng cho những bệnh nhân chưa được điều trị. Các thử nghiệm khác điều trị cho những bệnh nhân bị ung thư không đỡ hơn. Cũng có những thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm những cách mới để ngăn chặn ung thư tái phát hoặc giảm tác dụng phụ của điều trị ung thư.

Điều trị ung thư theo giai đoạn

Một số xét nghiệm đã được thực hiện để chẩn đoán ung thư hoặc tìm ra giai đoạn ung thư có thể được lặp lại. Một số xét nghiệm sẽ được lặp lại để xem điều trị có hiệu quả như thế nào. Quyết định về việc có nên tiếp tục, thay đổi hoặc ngừng điều trị dựa trên kết quả của các xét nghiệm này.

Một số xét nghiệm sẽ tiếp tục được thực hiện sau khi điều trị kết thúc. Kết quả của các xét nghiệm này có thể cho thấy nếu tình trạng của bệnh nhân đã thay đổi hoặc ung thư đã tái phát . Những xét nghiệm này đôi khi được gọi là xét nghiệm theo dõi hoặc kiểm tra.

Sau khi điều trị ung thư trực tràng, xét nghiệm máu để đo CEA để theo dõi xem hiệu quả điều trị ung thư.

Giai đoạn 0

  • Cắt polyp.
  • Cắt bỏ tại chỗ.
  • Cắt bỏ hoàn toàn.

Giai đoạn I

Điều trị ung thư trực tràng giai đoạn I có thể bao gồm:

  • Cắt bỏ tại chỗ
  • Cắt bỏ toàn bộ
  • Cắt bỏ toàn bộ, sau phẫu thuật điều trị bằng xạ trị và hóa trị.

Giai đoạn II và III

Điều trị ung thư trực tràng giai đoạn II và III có thể bao gồm:

  • Phẫu thuật.
  • Hóa trị kết hợp với xạ trị, sau đó phẫu thuật.
  • Liệu pháp xạ trị ngắn hạn sau đó là phẫu thuật và hóa trị.
  • Phẫu thuật, tiếp theo hóa trị liệu kết hợp với xạ trị.

Giai đoạn IV và ung thư trực tràng tái phát

Điều trị ung thư trực tràng giai đoạn IV và tái phát có thể bao gồm:

  • Phẫu thuật có hoặc không có hóa trị hoặc xạ trị.
  • Hóa trị liệu toàn thân có hoặc không có liệu pháp trúng đích (một kháng thể đơn dòng hoặc dùng chất ức chế sự hình thành mạch ).
  • Hóa trị để kiểm soát sự phát triển của khối u.
  • Liệu pháp xạ trị, hóa trị hoặc kết hợp liệu pháp giảm nhẹ để giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống.
  • Đặt stent trực tràng để mở trực tràng nếu nó bị chặn một phần bởi khối u, là liệu pháp giảm nhẹ để giảm triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Điều trị ung thư trực tràng đã lan đến các cơ quan khác phụ thuộc vào nơi ung thư đã lan rộng

Điều trị cho ung thư đã di căn đến gan bao gồm:

  • Phẫu thuật cắt bỏ khối u. Hóa trị có thể được dùng trước khi phẫu thuật để thu nhỏ khối u.
  • Phẫu thuật lạnh hoặc cắt bỏ bằng sóng cao tần .
  • Hóa trị và / hoặc hóa trị liệu toàn thân.

Tiên lượng của ung thư trực tràng

Tiên lượng ung thư đại trực tràng dựa rất nhiều vào các giai đoạn của ung thư đại trực tràng. Theo các con số thống kê, tiên lượng sống > 5 năm với bệnh ung thư đại trực tràng ở giai đoạn I là 93%. Bệnh ở giai đoạn II là 72-85% và giai đoạn III là 44-83%.

Hóa trị có thể giúp cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân ung thư giai đoạn III. Ung thư giai đoạn IV có tiên lượng rất kém, chỉ khoảng 8% tỷ lệ sống sau 5 năm

Sàng lọc ung thư trực tràng

Sàng lọc ung thư là tìm kiếm ung thư trước khi nó có triệu chứng. Điều này có thể giúp tìm ra ung thư ở giai đoạn đầu. Khi ung thư được phát hiện sớm, nó có thể dễ điều trị hơn. Vào thời điểm các triệu chứng xuất hiện, ung thư có thể đã bắt đầu lan rộng.

Với những người không có yếu tố nguy cơ nên đi nội soi đại trực tràng và kiểm tra máu ẩn trong phân từ tuổi 50, với những người có yếu tố nguy cơ nên đi kiểm tra sớm hơn.

Một nghiên cứu công bố trên Tạp chí Y học New England ngày 23-2-2012 cho thấy rằng những người từng nội soi đại trực tràng có khả năng chết vì ung thư trực tràng trong 15 năm tiếp theo ít hơn 53% so với những người chỉ có xét nghiệm máu ẩn trong phân. Vì vậy, thực hiện cả hai biện pháp sàng lọc nói trên sau 50 tuổi và lặp lại thường xuyên theo khuyến cáo của bác sĩ có thể bảo toàn mạng sống.

Hơn 90% người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư trực tràng trên 50 tuổi. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong 4 người trên 50 tuổi thường 1 người có khối polyp. Polyp là tiền thân có thể phát triển thành ung thư. Nội soi đại trực tràng không chỉ tìm thấy khối u, mà còn loại bỏ chúng trước khi chúng chuyển thành ung thư. Nhiều người tránh nội soi đại tràng bởi vì sợ đau nhưng không hoàn toàn như vậy.

Nếu kết quả xét nghiệm sàng lọc bất thường, bạn có thể cần phải thực hiện thêm các xét nghiệm để tìm hiểu xem mình có bị ung thư không.

Phòng chống ung thư trực tràng

Phòng ngừa ung thư là hành động được thực hiện để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư. Bằng cách ngăn ngừa ung thư, số trường hợp ung thư mới được giảm xuống. Hy vọng, điều này sẽ làm giảm số người chết do ung thư.

Để ngăn ngừa ung thư mới bắt đầu, các nhà khoa học xem xét các yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ. Bất cứ điều gì làm tăng cơ hội phát triển ung thư của bạn được gọi là yếu tố nguy cơ ung thư; bất cứ điều gì làm giảm cơ hội phát triển ung thư của bạn được gọi là yếu tố bảo vệ ung thư.

Một số yếu tố nguy cơ ung thư có thể tránh được, nhưng nhiều yếu tố không thể. Ví dụ, cả hút thuốc và di truyền gen là các yếu tố nguy cơ đối với một số loại ung thư, nhưng bạn chỉ có thể tránh hút thuốc. Tập thể dục thường xuyên và chế độ ăn uống lành mạnh có thể là yếu tố bảo vệ cho một số loại ung thư. Tránh các yếu tố nguy cơ và tăng các yếu tố bảo vệ có thể làm giảm nguy cơ của bạn, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư.

Các biện pháp phòng tránh ung thư trực tràng là:

Chế độ ăn uống lành mạnh

Trái cây và rau quả cũng như chế độ ăn nhiều chất xơ đều làm giảm nguy cơ ung thư trực tràng. Mỡ động vật như thịt đỏ làm tăng nguy cơ ung thư trực tràng. Hạn chế thức ăn muối, lên men, cá khô, nước tương, thịt xông khói.

Theo dõi cân nặng

Béo phì tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng cho tất cả mọi người, mặc dù ở nam giới béo phì thì nguy cơ cao hơn. Vòng bụng cũng là vấn đề đáng quan tâm, một người béo bụng thì khả năng mắc ung thư đại trực tràng nhiều hơn so với người tích mỡ ở đùi hoặc hông.

Tập thể dục hàng ngày

Tập thể dục làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng đến 40%. Tất nhiên, tập thể dục cũng làm giảm các yếu tố nguy cơ khác cho bệnh này như béo phì hay tiểu đường.

Quan tâm đến yếu tố di truyền

Thực tế cho thấy, tiền sử gia đình đã có người bị ung thư dạ dày, gan, đường tiêu hóa và ung thư xương là động lực để kiểm soát ung thư trực tràng. Bệnh sử cá nhân cũng cần lưu ý vì phụ nữ có tiền sử ung thư buồng trứng, (màng) dạ con, hoặc ung thư vú sẽ có nguy cơ mắc bệnh ung thư trực tràng cao hơn.

Không hút thuốc

Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Nó cũng là một yếu tố nguy cơ của ung thư đại trực tràng bởi khói thuốc lá hít vào hoặc nuốt phải mang chất gây ung thư đại trực tràng. Nghiên cứu cho thấy polyp sẽ tăng kích thước nếu hút thuốc lá. Đó chính là lý do cần thiết nữa để không hút thuốc lá.

Đi khám nếu có dấu hiệu bất thường

Trường hợp cần kiểm tra là khi phát hiện đại tiểu tiện bất thường, phân lỏng hay phân có máu, bị chuột rút, giảm cân không rõ nguyên nhân…

Vài điều về tác giá

Dr. Hung

Thích viết, đam mê chia sẻ kiến thức đến cộng đồng và mong muốn mọi người đều có kiến thức cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như người thân. Ngoài ra còn thích nghe nhạc trữ tình, làm đồ handmade...

Leave a Comment