Ung thư

Chất chống oxy hóa có giúp phòng ngừa và điều trị ung thư không?

Cơ thể chúng ta được cấu tạo nên bởi hàng tỉ tế bào. Các tế bào liên tục được sản xuất để giúp chúng ta phát triển, để thay thế những tế bào đã chết hoặc hàn gắn lại những tế bào bị tổn thương. Quá trình này được kiểm soát bởi gen. Tuy nhiên, những gen đã bị tổn hại có thể dẫn đến sự phát triển không bình thường. Chúng làm tế bào mất kiểm soát và phát triển thành những khối gọi là u. Ung thư là các khối u  ác tính, gồm các tế bào phân chia một cách vô tổ chức, xâm lấn xung quanh hoặc di căn. Nguyên nhân khiến các gen bị tổn hại có thể có di truyền hoặc do ảnh hưởng các gốc tự do. Nguyên nhân do di truyền có thể không thay đổi và ngăn chặn được. Nhưng đối với các gốc tự do, thật may mắn vì chất chống oxy hóa có khả năng ngăn ngừa chúng.

Vậy các gốc tự do là gì? Chất chống oxy hóa là gì? Chất chống oxy hóa có tác dụng phòng chống bệnh ung thư hay không?

Bài viết sau đây sẽ giúp các bạn tìm hiểu.

Gốc tự do là gì?

chất chống oxy hóa điều trị ung thư

Gốc tự do là các chất phản ứng mạnh có khả năng gây hại cho các tế bào. Bình thường, các nguyên tử trong cơ thể chúng ta ở trạng thái cân bằng. Trong quá trình trao đổi chất như thu nhận khí oxy hoặc chuyển hóa thức ăn tạo năng lượng, một số nguyên tử bị mất electron và trở nên mất cân bằng. Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Chính việc mất cân bằng electron trong nguyên tử đã tạo ra các gốc tự do đi “chiếm đoạt” electron từ các nguyên tử lành lặn khác. Chính điều này gây ra chuỗi phản ứng không mong muốn. Khi chiếm đoạt các electron từ các nguyên tử lành, các gốc tự do sẽ gây ra một loạt gốc tự do mới. Đến lượt mình, các gốc tự do mới này lại đi tìm kiếm electron và vòng luẩn quẩn lại tiếp tục, làm cho các tế bào lành bị hư hại hoặc biến chất.

Khi có quá nhiều gốc tự do trong cơ thể thì tác hại của chúng là vô cùng to lớn. Các gốc tự do tấn công và oxy hóa màng tế bào (gồm lipid và protein). Gốc tự do cũng làm tổn thương ti thể – trung tâm năng lượng của tế bào, nơi chuyển hóa các chất hữu cơ, thành năng lượng tế bào có thể sử dụng được. Quá trình oxy hóa này phá hủy các enzyme và hormone chính của cơ thể, cản trở khả năng hồi phục tự nhiên của các tế bào. Nó phá rách màng tế bào khiến chất dinh dưỡng thất thoát, tế bào không tăng trưởng, rồi chết. Nó tiêu hủy hoặc ngăn cản sự tổng hợp các phân tử chất đạm, đường bột, mỡ, enzyme trong tế bào. Ngay cả các phân tử ADN cũng có thể bị tấn công bởi khoảng 100.000 gốc tự do mỗi ngày có thể dẫn tới đột biến ở gene, ở nhiễm thể, ở DNA, RNA. Các tế bào lành bị tổn thương dần dần sẽ dẫn tới lão hóa, bệnh ung thư và các tình trạng sức khỏe khác. Chính gốc tự do tạo ra chất lipofuscin tích tụ dưới da khiến ta có những vết đồi mồi trên mặt, trên mu bàn tay và làm chất collagen, elastin mất tính đàn hồi, dẻo dai khiến da nhăn nheo, cơ khớp cứng nhắc.

Theo các nhà khoa học thì gốc tự do có thể là thủ phạm gây ra tới trên 60 bệnh, đáng kể nhất gồm có: bệnh vữa xơ động mạch, ung thư, Alzheimer, Parkinson, đục thuỷ tinh thể, bệnh tiểu đường, cao huyết áp vô căn, xơ gan.

Trong cơ thể có rất nhiều loại gốc tự do, các gốc nguy hiểm hơn cả là superoxide, ozone, hydrogen peroxide, lipid peroxy nhất là hydroxyl radical, một gốc rất phản ứng và  gây ra nhiều tổn thương.

Gốc tự do được tạo ra bằng nhiều cách

Nồng độ gốc tự do cao bất thường trong cơ thể có thể được gây ra do tiếp xúc với bức xạ ion hóa và các độc tố khác từ môi trường. Khi bức xạ ion hóa chạm vào một nguyên tử hoặc một phân tử trong tế bào có thể khiến nguyên từ hay phân tử đó bị mất 1 electron, dẫn đến sự hình thành gốc tự do. Bức xạ ion hóa khiến việc sản xuất các gốc tự do ở mức độ cao bất thường, giết chết các tế bào. Hơn nữa, một số độc tố môi trường, chẳng hạn như khói thuốc lá, một số kim loại, có thể chứa một lượng lớn các gốc tự do hoặc kích thích các tế bào cơ thể tạo ra nhiều gốc tự do hơn. Ngoài ra nó còn là sản phẩm của stress, bệnh tật, mệt mỏi, dược phẩm, thực phẩm có chất màu tổng hợp, nước có nhiều chlorine và ngay cả oxygen.

Các gốc tự do có chứa oxy nguyên tố là loại gốc tự do phổ biến nhất được tạo ra trong mô sống. Một tên gọi khác của chúng là gốc tự do oxy hóa (Reactive oxygen species, viết tắt là ROS).

Theo các báo cáo, người ta thấy gốc tự do có ít ở các sinh vật chết non, có nhiều hơn ở sinh vật sống lâu. Người cao tuổi có nhiều gốc tự hơn khi người đó còn trẻ.

Tuy nhiên, không phải là gốc tự do nào cũng phá hoại cơ thể. Đôi khi chúng cũng có một vài lợi ích. Nếu được kiểm soát, nó là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể; tạo ra chất màu melanine cần cho thị giác; góp phần sản xuất prostaglandins có công dụng ngăn ngừa nhiễm trùng; tăng cường tính miễn dịch; làm sự truyền đạt tín hiệu thần kinh và sự co cơ bắp dễ dàng hơn.

Chất chống oxy hóa – “kẻ thù” của gốc tự do

Việc cơ thể sản sinh ra các gốc tự do trong quá trình trao đổi chất là không thể tránh khỏi. Điều quan trọng là trong cơ thể khoẻ mạnh, gốc tự do sinh ra có giới hạn, không quá thừa để gây hại. Và rất may là gốc tự do cũng có “kẻ thù”, đó là các chất chống oxy hóa, có nhiệm vụ cân bằng lại, vô hiệu hoá các gốc tự do có hại. Cụ thể hơn, chất chống oxy hóa có electron dư thừa để cung cấp cho gốc tự do “khát máu”, nhờ vậy làm vô hiệu hóa tác hại của gốc tự do, giúp giữ ổn định chức năng và cấu trúc của các tế bào khỏe mạnh.

Cơ thể tạo ra một số chất chống oxy hóa sử dụng để trung hòa các gốc tự do. Những chất chống oxy hóa này được gọi là chất chống oxy hóa nội sinh. Tuy nhiên, cơ thể cần những nguyên liệu từ bên ngoài, chủ yếu thông qua chế độ ăn uống, để có được những nguồn cung cấp chất chống oxy hóa ngoại sinh. Những chất chống oxy hóa ngoại sinh này thường được gọi là “chất chống oxy hóa trong chế độ ăn uống”. Trái cây, rau và ngũ cốc là nguồn phong phú các chất chống oxy hóa. Một số loại thực phẩm hoặc trái cây chứa rất nhiều chất chống oxy hóa chẳng hạn mật ong, quả măng cụt, nho đen, xơ ri, nha đam, gấc, trà đỏ v.v… ngoài ra một số thực phẩm chức năng cũng bổ sung chất chống oxy hóa.

Cơ thể chúng ta có thể tự sản xuất các chất chống oxy hóa. Tuy nhiên khi tuổi tác càng cao hoặc trong điều kiện môi trường ô nhiễm, thức ăn chứa nhiều độc tố hoặc ăn uống không đủ chất dinh dưỡng, khoáng chất, vitamin v.v gốc tự do được sinh ra quá nhiều và hệ thống chất chống oxy hoá nội sinh không đủ sức cân bằng thì mới sinh ra các rối loạn bệnh lý. Do đó bổ sung các chất chống oxy hóa từ bên ngoài là rất cần thiết.

Ví dụ về các chất chống oxy hóa có trong chế độ ăn uống bao gồm: Beta-carotene, lycopene, lutein, coenzyme Q10 và vitamin A, C và E (alpha-tocopherol). Khoáng chất selenium thường được cho là một chất chống oxy hóa, nhưng tác dụng chống oxy hóa của selen rất có thể là do hoạt động chống oxy hóa của các protein có thành phần thiết yếu là selen (ví dụ, protein có chứa selen) chứ không phải do tác dụng đơn thuần của selen.

Sử dụng chế phẩm bổ sung chống oxy hóa có thể giúp ngăn ngừa ung thư?

Trong các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật, người ta đã chứng minh được sự tăng lên của các chất chống oxy hóa ngoại sinh có thể ngăn ngừa các loại tổn thương gốc tự có liên quan đến sự phát triển ung thư. Nhiều nghiên cứu quan sát, bao gồm các nghiên cứu bệnh chứng nghiên cứu đoàn hệ, đã được tiến hành để điều tra xem việc sử dụng các chất bổ sung chống oxy hóa trong chế độ ăn uống có liên quan đến việc giảm nguy cơ ung thư ở người hay không. Nhìn chung, những nghiên cứu này đã mang lại kết quả hỗn hợp. Bởi vì các nghiên cứu quan sát không thể kiểm soát đầy đủ các sai lệch có thể ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu, kết quả của bất kỳ nghiên cứu quan sát riêng lẻ nào cũng phải được xem xét thận trọng.

Các thử nghiệm lâm sàng thường đáng tin cậy và ít các sai số hơn các nghiên cứu quan sát. Do đó, các thử nghiệm ngẫu nhiên được coi là có thể cung cấp bằng chứng mạnh mẽ và đáng tin cậy nhất về lợi ích và / hoặc tác hại của can thiệp liên quan đến sức khỏe. Cho đến nay, chín thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát về việc bổ sung chất chống oxy hóa trong chế độ ăn uống để phòng ngừa ung thư đã được tiến hành trên toàn thế giới.

Các nghiên cứu khác nhau đã đưa ra kết luận khác nhau về hiệu quả và độ an toàn của việc bổ sung chất chống oxy hóa để ngăn ngừa ung thư hoặc dùng chúng trong quá trình điều trị ung thư. Bổ sung các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát cao là cần thiết để cung cấp bằng chứng khoa học rõ ràng về lợi ích hoặc tác hại tiềm tàng của việc bổ sung chất chống oxy hóa trong điều trị ung thư.

Kết quả của chín thử nghiệm này được tóm tắt dưới đây:

Tên thử nghiệm, quốc gia Can thiệp Đối tượng Kết quả
Thử nghiệm can thiệp dinh dưỡng dân số nói chung ở Linxian, Trung Quốc

 

Bổ sung 15mg beta-carotene, 30 mg alpha-tocopherol và 50 microgam selenium mỗi ngày trong 5 năm Nam và nữ khỏe mạnh có nguy cơ mắc ung thư thực quản và ung thư dạ dày Ban đầu: Không ảnh hưởng đến nguy cơ phát triển ung thư; Giảm nguy cơ tử vong do ung thư dạ dày

Sau đó: Không ảnh hưởng đến nguy cơ tử vong do ung thư dạ dày

Nghiên cứu về tác dụng phòng chống ung thư của Alpha-Tocopherol / Beta-Carotene (ATBC), Phần Lan

 

Bổ sung 50 mg Alpha-tocopherol mỗi ngày và / hoặc 20 mg beta-carotene mỗi ngày trong 5 đến 8 năm

 

Nam giới hút thuốc trong độ tuổi trung niên

 

Ban đầu: Tăng tỷ lệ mắc ung thư phổi cho những người dùng bổ sung beta-carotene

Sau đó: Không có tác dụng của một trong hai chất bổ sung về tỷ lệ mắc ung thư đường tiết niệu, tụy, đại trực tràng, thận hoặc đường tiêu hóa trên.

Thử nghiệm hiệu quả của Carotene và Retinol (CARET), Hoa Kỳ

 

Bổ sung 15 mg beta-carotene và 25.000 retinol đơn vị quốc tế (IU) hàng ngày

 

Những người có nguy cơ cao bị ung thư phổi vì có tiền sử hút thuốc hoặc tiếp xúc với amiăng

 

Ban đầu: Tăng nguy cơ ung thư phổi và tăng tử vong do mọi nguyên nhân – thử nghiệm kết thúc sớm

Sau đó: Nguy cơ ung thư phổi cao hơn và tử vong do mọi nguyên nhân vẫn tồn tại; không ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.

Nghiên cứu Sức khỏe của Bác sĩ I (PHS I), Hoa Kỳ

 

Bổ sung 50 mg Beta-carotene cách ngày trong 12 năm

 

Bác sĩ nam Không ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc ung thư và tử vong do ung thư hoặc tử vong do mọi nguyên nhân ở cả người hút thuốc hoặc người không hút thuốc
Nghiên cứu Sức khỏe Phụ nữ (WHS), Hoa Kỳ Bổ sung 50 mg Beta-carotene cách ngày, bổ sung 600 IU vitamin E cách ngày và 100 mg aspirin cách ngày Phụ nữ ở độ tuổi 45 và lớn hơn Ban đầu: Không có lợi ích hay tác hại liên quan đến việc bổ sung beta-carotene trong 2 năm

Sau đó: Không có lợi hay hại liên quan đến việc bổ sung vitamin E 2 năm

Bổ sung Vitamin và khoáng chất chống oxy hóa, Pháp Bổ sung hàng ngày với vitamin C (120 mg), vitamin E (30 mg), beta-carotene (6 mg) và khoáng chất selenium (100 microgam) và kẽm (20 mg) trong trung bình 7,5 năm

 

Nam và nữ Ban đầu: Tỷ lệ mắc ung thư và ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn và tỷ lệ tử vong thấp hơn do mọi nguyên nhân ở nam giới; tăng tỷ lệ mắc ung thư da ở phụ nữ

Sau đó: Không có bằng chứng về tác dụng bảo vệ ở nam giới hoặc tác dụng có hại ở phụ nữ trong vòng 5 năm kể từ khi kết thúc bổ sung

Nghiên cứu HOPE, Quốc tế

 

Bổ sung 400 IU với alpha-tocopherol hàng ngày trong thời gian trung bình là 7 năm

 

Những người được chẩn đoán mắc bệnh tim mạch hoặc tiểu đường

 

Không ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc ung thư, tử vong do ung thư hoặc tỷ lệ mắc các biến cố mạch lớn
Thử nghiệm phòng chống ung thư của Selen và Vitamin E, Hoa Kỳ

 

Bổ sung microgam selenium 200 hoặc 400 IU hàng ngày hoặc cả hai

 

Đàn ông từ 50 tuổi trở lên

 

Ban đầu: Không giảm tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt hoặc các bệnh ung thư khác. Thử nghiệm đã dừng lại sớm

 

Sau đó: Xuất hiện nhiều trường hợp ung thư tuyến tiền liệt hơn trong số những người chỉ dùng vitamin E

Nghiên cứu Sức khỏe của Bác sĩ II (PHS II), Hoa Kỳ Bổ sung 400 IU vitamin E, 500 mg vitamin C mỗi ngày hoặc kết hợp cả hai Bác sĩ nam từ 50 tuổi trở lên Không giảm tỷ lệ mắc ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư khác

Bổ sung chất chống oxy hóa cũng đã được chứng minh là làm giảm hiệu quả của một số phương pháp điều trị ung thư. Một số phương pháp điều trị, như xạ trị và hóa trị, sử dụng các gốc tự do để tiêu diệt các tế bào ung thư. Nhưng, bởi vì các chế phẩm bổ sung chất chống oxy hóa như thực phẩm chức năng hoạt động bằng cách chống lại các gốc tự do, dùng chế phẩm bổ sung chất chống oxy hóa cho bệnh nhân ung thư có thể làm giảm hiệu quả của một số phương pháp điều trị ung thư như trong một số nghiên cứu đã tuyên bố. Tuy nhiên, bổ sung chất chống oxy hóa từ thực phẩm như trái cây, rau và ngũ cốc không làm giảm hiệu quả điều trị. Chúng cũng giúp cung cấp các chất dinh dưỡng hỗ trợ hệ thống miễn dịch khỏe mạnh.

Điều quan trọng là bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng bất kì loại chế phẩm bổ sung nào trước khi bắt đầu một chế độ điều trị, đặc biệt là trong điều trị ung thư.

Trong hầu hết các trường hợp, bạn có thể tìm thấy tất cả các chất chống oxy hóa bạn cần trong chế độ ăn uống lành mạnh từ thực vật. Ăn nhiều trái cây và rau quả có màu khác nhau có thể giúp đảm bảo bạn có được các chất chống oxy hóa quan trọng như lycopene, beta-carotene và anthocyanin.

Những thực phẩm nào giàu chất chống oxy hóa?

Chất chống oxy hóa có nhiều trong trái cây và rau quả, cũng như trong các loại thực phẩm khác bao gồm các loại hạt, ngũ cốc và một số loại thịt, gia cầm và cá. Danh sách dưới đây liệt kê các nguồn thực phẩm có chứa nhiều chất chống oxy hóa phổ biến.

Beta-carotene

Được tìm thấy trong nhiều loại thực phẩm có màu cam, bao gồm khoai lang, cà rốt, dưa vàng, bí, quả mơ, bí ngô và xoài. Một số loại rau lá xanh bao gồm rau cải rổ, rau bina và cải xoăn cũng rất giàu beta-carotene.

Lutein

Được biết đến nhiều nhất nhờ có tác dụng cho đôi mắt khỏe mạnh, có nhiều trong các loại rau lá xanh như rau cải rổ, rau bina và cải xoăn.

Lycopene

Là một chất chống oxy hóa mạnh có trong cà chua, dưa hấu, ổi, đu đủ, quả mơ, bưởi hồng, cam đỏ (cam máu) và các thực phẩm khác. Ước tính 85% lượng lycopene trong chế độ ăn uống của người Mỹ đến từ cà chua và các sản phẩm từ cà chua.

Selenium

Là một khoáng chất, không phải là một chất dinh dưỡng chống oxy hóa. Tuy nhiên, nó là một thành phần của enzyme chống oxy hóa. Thực phẩm thực vật như gạo và lúa mì là nguồn cung cấp selen chính ở hầu hết các quốc gia. Lượng selen trong đất, thay đổi theo vùng, sẽ quyết định lượng selen trong thực phẩm được trồng trong đất đó. Động vật ăn ngũ cốc hoặc thực vật được trồng trong đất giàu selen có hàm lượng selen cao hơn trong thịt của chúng. Ở Hoa Kỳ, thịt và bánh mì là nguồn cung cấp selen phổ biến. Các quả hạch Brazil cũng chứa một lượng lớn selen.

Vitamin A

Được tìm thấy ở ba dạng chính: Retinol (Vitamin A1), 3,4-didehydroretinol (Vitamin A2) và 3-hydroxy-retinol (Vitamin A3). Thực phẩm giàu vitamin A bao gồm gan, khoai lang, cà rốt, sữa, lòng đỏ trứng và phô mai mozzarella.

Vitamin C

Còn được gọi là axit ascorbic và có thể được tìm thấy rất nhiều trong nhiều loại trái cây và rau quả và cũng được tìm thấy trong ngũ cốc, thịt bò, thịt gia cầm và cá.

Vitamin E

Còn được gọi là alpha-tocopherol, được tìm thấy trong hạnh nhân, trong nhiều loại dầu bao gồm mầm lúa mì, nghệ tây, ngô và dầu đậu nành và cũng có trong xoài, các loại hạt, bông cải xanh và các thực phẩm khác.

Vài điều về tác giá

Dr. Hung

Thích viết, đam mê chia sẻ kiến thức đến cộng đồng và mong muốn mọi người đều có kiến thức cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho bản thân cũng như người thân. Ngoài ra còn thích nghe nhạc trữ tình, làm đồ handmade...

Leave a Comment