Bạch cầu cấp dòng tủy là một trong những bệnh máu ác tính thường gặp nhất ở người trưởng thành, tỷ lệ mắc của bệnh tăng dần theo tuổi. Hơn một nửa số trường hợp bạch cầu cấp dòng tủy được phát hiện sau 60 tuổi với tuổi mắc bệnh trung bình của các bệnh nhân là 64. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tỷ lệ lui bệnh sau hóa trị liệu cũng như thời gian ổn định của bệnh đều giảm trong khi tác dụng phụ tăng với tỷ lệ đáng kể ở những người bệnh lớn tuổi.
Hiện nay, tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ về dịch tễ học của bệnh bạch cầu trên toàn quốc nhưng theo thống kê tại Viện Huyết học – Truyền máu trung ương, Bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ bệnh bạch cầu cấp là cao nhất (chiếm 32,1%) trong số các bệnh máu đến khám và điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai. Nhưng việc chẩn đoán bệnh này còn gặp một số khó khăn.
Mục lục
- Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy là gì?
- Các yếu tố nguy cơ của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
- Các triệu chứng của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
- Các xét nghiệm phát hiện và chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trưởng thành
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và lựa chọn điều trị
- Xét nghiệm phân giai đoạn của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
- Phân giai đoạn của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
- Các phương pháp điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
- Thử nghiệm lâm sàng
- Điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy theo giai đọan
- Phòng tránh bệnh bạch cầu dòng tủy cấp
Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy là gì?
Bệnh bạch cầu là một bệnh ung thư máu và tủy xương. Tủy xương là trung tâm xốp của xương và nó tạo ra các tế bào máu: bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu. Các tế bào bạch cầu giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm trùng. Các tế bào hồng cầu mang ôxy từ phổi đến các cơ quan của cơ thể. Tiểu cầu giúp tạo ra cục máu đông để kiểm soát chảy máu. Tế bào gốc trong tủy xương sản sinh các tế bào non bạch cầu, hồng cầu hoặc tiểu cầu rồi qua quá trình biệt hóa thành các tế bào trưởng thành.
Khi bệnh bạch cầu xảy ra, tủy xương bắt đầu sản sinh quá nhiều các tế bào bạch cầu non, chưa hoàn thiện về mặt chức năng. Không những vậy, quá nhiều tế bào bạch cầu non còn lấn át làm giảm số lượng tiểu cầu và hồng cầu. Bệnh bạch cầu được phân loại thành dòng tủy hoặc dòng lympho tùy thuộc loại tế bào bạch cầu bị ảnh hưởng. Mỗi loại tiếp tục chia thành mãn tính hoặc cấp tính phụ thuộc vào tốc độ lây lan bệnh.
Bệnh bạch cầu mãn tính tiến triển chậm hơn so với loại cấp tính. Có bốn loại chính của bệnh bạch cầu:
- Bệnh bạch cầu lympho cấp (ALL)
- Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy (AML)
- Bệnh bạch cầu lympho mạn (CLL)
- Bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML)
Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính ở người trưởng thành (AML) là một loại ung thư trong đó tủy xương tạo ra các nguyên tủy bào bất thường- từ nguyên tủy bào phát triển thành bạch cầu, hồng cầu hoặc tiểu cầu. Loại ung thư này thường trở nên tồi tệ nhanh chóng nếu không được điều trị. Đây là loại bệnh bạch cầu cấp tính phổ biến nhất ở người lớn.
Trong bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, các nguyên tủy bào thường trở thành tế bào bạch cầu chưa trưởng thành được gọi là myeloblasts Các myeloblasts trong AML bất thường và không trở thành các tế bào bạch cầu khỏe mạnh. Đôi khi trong AML, quá nhiều tế bào gốc trở thành tế bào hồng cầu hoặc tiểu cầu bất thường. Các tế bào bạch cầu có thể tích tụ trong tủy xương và máu, do đó, không có chỗ cho các tế bào bạch cầu khỏe mạnh, hồng cầu và tiểu cầu khác. Khi điều này xảy ra, nhiễm trùng, thiếu máu hoặc chảy máu có thể dễ dàng xảy ra. Các tế bào bạch cầu có thể lan ra ngoài máu đến các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm cả hệ thống thần kinh trung ương (não và tủy sống), da và niêm mạc.
Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy có nhiều loại
Hầu hết phân loại của AML dựa trên mức độ trưởng thành của các tế bào ung thư tại thời điểm chẩn đoán và chúng khác với các tế bào bình thường như thế nào.
Bệnh bạch cầu cấp tính (APL) là một loại của AML xảy ra khi các phần của hai gen dính vào nhau. APL thường xảy ra ở người trung niên. Dấu hiệu của APL có thể bao gồm dễ chảy máu và hình thành cục máu đông.
Các yếu tố nguy cơ của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
Hút thuốc, có tiền sử điều trị hóa trị và tiếp xúc với bức xạ có thể là các nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cấp dòng tủy.
Bất cứ điều gì làm tăng nguy cơ mắc bệnh của bạn được gọi là yếu tố nguy cơ hay yếu tố rủi ro. Có một yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ bị ung thư; không có các yếu tố nguy cơ không có nghĩa là bạn sẽ không bị ung thư. Trao đổi với bác sĩ nếu bạn nghĩ rằng bạn có thể có yếu tố nguy cơ.
Các yếu tố nguy cơ của AML bao gồm:
- Là nam giới.
- Hút thuốc, đặc biệt là sau 60 tuổi.
- Đã từng điều trị bằng hóa trị hoặc xạ trị trước đây.
- Đã từng điều trị cho bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL) hồi nhỏ.
- Đã tiếp xúc với bức xạ từ bom nguyên tử hoặc hợp chất benzen.
- Có tiền sử rối loạn máu như hội chứng rối loạn sinh tủy.
Các triệu chứng của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
Các dấu hiệu hay triệu chứng của AML ở người trưởng thành bao gồm sốt, cảm thấy mệt mỏi và dễ bị bầm tím hoặc chảy máu.
Các dấu hiệu và triệu chứng ban đầu của AML có thể giống như các triệu chứng do cúm hoặc các bệnh thông thường khác. Kiểm tra sức khỏe nếu bạn có bất kỳ điều sau đây:
- Đốm đỏ: đốm đỏ hoặc tím trên da là hệ quả của việc sụt giảm số lượng tiểu cầu trong cơ thể.
- Nhức đầu: nhức đầu dữ dội, đi kèm đó là hiện tượng đổ mồ hôi, da dẻ xanh xao. Do sự suy thoái lưu lượng máu đưa lên não khiến cho não không được cung cấp đủ oxy nên gây đau đầu.
- Đau xương: một trong những triệu chứng chính của ung thư máu chính là đau xương. Các cơn đau có thể xuất hiện tùy theo mức độ của bệnh và thường xuất hiện ở khớp xương chân, đầu gối, cánh tay, lưng.
- Sưng hạch bạch huyết: sưng hạch bạch huyết thường nổi dưới da của bệnh nhân ung thư máu và không gây đau.
- Xanh xao, mệt mỏi: khi mắc ung thư máu, lượng hồng cầu có trong máu bị suy giảm đáng kể, hiện tượng này còn gọi dễ hiểu hơn là “thiếu máu”. Thiếu máu khiến cơ thể trở nên mệt mỏi, xanh xao bởi cơ thể không đáp ứng được nhu cầu trao đổi dưỡng khí.
- Chảy máu cam: chảy máu cam là hiện tượng khá thường gặp nhưng nếu trong trường hợp chảy máu nhiều, liên trục nhiều ngày thì ngay lập tức phải khám bệnh càng sớm càng tốt bởi đây có thể là hệ quả của việc suy giảm số lượng tiểu cầu – tế bào có tác dụng cầm máu.
- Sốt cao thường xuyên: bệnh nhân mắc ung thư máu bị suy giảm trầm trọng khả năng miễn dịch biểu hiện qua những cơn sốt cao, những vết thương nhiễm trùng khó lành.
- Đau bụng: khi ung thư máu đã tiến triển đến gan và lá lách, nó có thể gây sưng tấy ở các bộ phận này. Vì thế, bệnh nhân sẽ có cảm giác đau bụng, đầy hơi, mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, hoặc ói mửa.
- Giảm cân hoặc chán ăn.
Các xét nghiệm phát hiện và chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trưởng thành
Trước tiên bác sĩ sẽ hỏi bệnh và khám tổng quát, bao gồm kiểm tra các dấu hiệu của bệnh, chẳng hạn như cục u hoặc bất cứ điều gì khác có vẻ bất thường. Bác sĩ sẽ hỏi bạn về tiền sử bệnh tật, phương pháp điều trị đã sử dụng, các thói quen sinh hoạt hàng ngày, tiền sử bệnh tật gia đình và xung quanh.
Sau đó bác sĩ sẽ chỉ định một số xét nghiệm để kiểm tra
Xét nghiệm công thức máu, huyết đồ
Phương pháp này dùng để xác định số lượng hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu đồng thời tiến hành phân loại tế bào bạch cầu. Đối với những người bình thường tế bào máu ngoại vi không tồn tại các tế bào máu non.
Khi bệnh nhân mắc ung thư máu các tế bào non này trong tủy không thể phát triển thành các tế bào máu trưởng thành mà nó buộc phải giải phóng ra các tế bào máu ngoại vi, vì thế, khi xét nghiệm sẽ phát hiện ra các tế bào non này.
Phết tế bào máu ngoại vi
Là phương pháp kiểm tra dưới kính hiển vi một mẫu máu ngoại vi nhằm tìm ra hầu hết các thông tin của tất cả các xét nghiệm huyết học. Tất cả ba loại huyết học tế bào gồm hồng cầu, tiểu cầu, và bạch cầu có thể được kiểm tra. Trong máu ngoại vi, năm loại khác nhau của các bạch cầu có thể thường được xác định là: bạch cầu trung tính, bạch cầu ái toan, bạch cầu ái kiềm, bạch cầu lympho, và bạch cầu mono. Ba loại bạch cầu đầu tiên còn được gọi là bạch cầu hạt. Các bạch cầu được kiểm tra về tổng số lượng, phân biệt và đếm từng loại, và mức độ trưởng thành. Tăng số lượng bạch cầu chưa trưởng thành có thể chỉ ra bệnh bạch cầu hoặc nhiễm trùng
Sinh thiết tủy
Sinh thiết tủy xương, máu và một mảnh xương nhỏ bằng cách sử dụng một cây kim nhỏ xuyên vào xương hông hoặc xương ức. Bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ quan sát tủy xương, máu và xương dưới kính hiển vi để tìm kiếm các dấu hiệu ung thư
Phân tích tế bào học
Một xét nghiệm trong phòng thí nghiệm trong đó các tế bào trong mẫu máu hoặc tủy xương được xem dưới kính hiển vi để tìm kiếm những thay đổi nhất định trong nhiễm sắc thể. Các xét nghiệm khác, chẳng hạn như lai huỳnh quang tại chỗ (FISH) cũng có thể được thực hiện để tìm kiếm những thay đổi nhất định trong nhiễm sắc thể.
Miễn dịch tế bào
Một quá trình được sử dụng để xác định các tế bào, dựa trên các loại kháng nguyên hoặc các dấu hiệu trên bề mặt của tế bào. Quá trình này được sử dụng để chẩn đoán phân nhóm AML bằng cách so sánh các tế bào ung thư với các tế bào bình thường của hệ thống miễn dịch . Ví dụ, người ta có thể kiểm tra các tế bào trong một mẫu mô bằng cách sử dụng hóa chất (thuốc nhuộm) để tìm kiếm những thay đổi nhất định trong mẫu. Thuốc nhuộm có thể gây ra sự thay đổi màu sắc trong một loại tế bào ung thư bạch cầu nhất định.
Kỹ thuật RT-PCR
Là xét nghiệm trong đó sử dụng hóa chất vớ các tế bào trong mẫu mô được nghiên cứu để tìm kiếm những thay đổi nhất định trong cấu trúc hoặc chức năng của gen. Thử nghiệm này được sử dụng để chẩn đoán một số loại AML bao gồm cả bệnh bạch cầu cấp tính (APL).
Một số yếu tố ảnh hưởng đến tiên lượng và lựa chọn điều trị
Các tiên lượng và lựa chọn phương pháp điều trị tùy chọn phụ thuộc vào:
- Tuổi của bệnh nhân.
- Giai đoạn của ung thư.
- Đã được hóa trị liệu trước đây chưa.
- Tiền sử có rối loạn sinh tủy không
- Ung thư đã lan đến hệ thống thần kinh trung ương chưa
- Ung thư mới phát hiện hay là tái phát.
Điều quan trọng là bệnh bạch cầu cấp tính phải được điều trị ngay lập tức.
Xét nghiệm phân giai đoạn của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
Khi đã được chẩn đoán bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trưởng thành các xét nghiệm được thực hiện để tìm hiểu xem ung thư có lan sang các bộ phận khác của cơ thể hay không. Mức độ hoặc sự lây lan của ung thư thường được phân thành các giai đoạn. Trong bệnh bạch cầu cấp dòng tủy, người ta phân loại và tìm hiểu liệu bệnh bạch cầu có lan ra ngoài máu và tủy xương để lên kế hoạch điều trị. Các xét nghiệm và quy trình sau đây có thể được sử dụng để xác định xem bệnh bạch cầu có lan rộng hay không:
- Chọc dò tủy sống : Phương pháp chọc tủy xét nghiệm là bắt buộc phải thực hiện để phân loại và xác định các loại tế bào máu trong tủy. Bình thường, lượng tế bào máu chưa trưởng thành có trong trong tủy không được vượt quá 5%, những bệnh nhân mắc ung thư máu thì lượng tế bào này tăng cao, có thể vượt quá 30%.
- CT scanner: là sử dụng máy tính và máy X-quang để tạo ra hình ảnh cắt ngang của cơ thể. Những hình ảnh này cung cấp thông tin chi tiết hơn so với hình ảnh X-quang thông thường. Chúng có thể cho bác sĩ thấy các mô mềm, mạch máu và xương ở các bộ phận khác nhau của cơ thể.
Phân giai đoạn của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
Không có giai đoạn chuẩn cho AML ở người lớn.
Bệnh được mô tả là không điều trị, thuyên giảm hoặc tái phát .
Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người lớn không điều trị
Trong AML ở người lớn không điều trị, bệnh mới được chẩn đoán. Bệnh không được điều trị ngoại trừ để làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng như sốt, chảy máu hoặc đau, và có các dấu hiệu sau đây:
- Công thức máu bất thường.
- Ít nhất 20% các tế bào trong tủy xương là tế bào non.
- Có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh bạch cầu.
AML ở người lớn thuyên giảm
Trong AML ở người lớn thuyên giảm, bệnh đã được điều trị và có các dấu hiệu sau đây:
- Công thức máu bình thường.
- Ít hơn 5% các tế bào trong tủy xương là tế bào non
- Không có dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh bạch cầu trong não và tủy sống hoặc các nơi khác trong cơ thể.
AML ở người lớn tái phát
AML tái phát là ung thư đã tái phát sau khi được điều trị. AML có thể quay trở lại trong máu hoặc tủy xương .
Các phương pháp điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy
Có nhiều loại điều trị khác nhau có sẵn cho bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu cấp dòng tủy ở người trưởng thành. Một số phương pháp điều trị là tiêu chuẩn (phương pháp điều trị hiện đang được sử dụng), và một số phương pháp đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng. Một thử nghiệm điều trị lâm sàng là một nghiên cứu giúp cải thiện các phương pháp điều trị hiện tại hoặc có được thông tin về các phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân ung thư. Khi các thử nghiệm lâm sàng cho thấy một phương pháp điều trị mới tốt hơn điều trị tiêu chuẩn, phương pháp điều trị mới có thể trở thành phương pháp điều trị tiêu chuẩn. Bệnh nhân có thể tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng. Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ sử dụng cho những bệnh nhân chưa bắt đầu điều trị.
Điều trị AML ở người trưởng thành thường có 2 giai đoạn:
- Điều trị thuyên giảm: Đây là giai đoạn đầu điều trị. Mục tiêu là tiêu diệt các tế bào ung thư trong máu và tủy xương. Điều này sẽ làm bệnh bạch cầu thuyên giảm.
- Điều trị sau thuyên giảm: Đây là giai đoạn thứ hai của điều trị. Nó bắt đầu sau khi bệnh bạch cầu đã thuyên giảm. Mục tiêu của trị liệu sau thuyên giảm là tiêu diệt bất kỳ tế bào ung thư bạch cầu còn lại nào có thể không hoạt động nhưng có thể bắt đầu gây tái phát.
Bốn loại điều trị tiêu chuẩn được sử dụng:
Hóa trị
Hóa trị là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng hóa chất để ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư, bằng cách tiêu diệt các tế bào hoặc bằng cách ngăn chặn chúng phân chia tế bào. Khi hóa trị được thực hiện bằng tiêm hoặc truyền vào tĩnh mạch, thuốc sẽ xâm nhập vào máu và có thể đến các tế bào ung thư trên toàn cơ thể (hóa trị liệu toàn thân ). Khi hóa trị được dùng trực tiếp vào dịch não tủy, một cơ quan hoặc khoang cơ thể như bụng, thuốc chủ yếu ảnh hưởng đến các tế bào ung thư ở những khu vực đó (hóa trị liệu tại chỗ). Cách thức hóa trị được đưa ra tùy thuộc vào loại và giai đoạn ung thư được điều trị. Hóa trị được làm theo chu kỳ, mỗi chu kỳ có khoảng thời gian điều trị nhất định. Hóa trị nội sọ có thể được sử dụng để điều trị AML ở người trưởng thành đã lan đến não và tủy sống. Hóa trị liệu kết hợp là điều trị bằng cách sử dụng nhiều hơn một loại thuốc chống ung thư.
Xạ trị
Xạ trị là phương pháp điều trị ung thư sử dụng tia X năng lượng cao hoặc các loại phóng xạ khác để tiêu diệt tế bào ung thư hoặc ngăn chúng phát triển. Có hai loại xạ trị:
- Xạ trị bên ngoài sử dụng một máy bên ngoài cơ thể để phóng bức xạ về phía ung thư.
- Xạ trị bên trong sử dụng một dạng thức có tên gọi là xạ áp sát. Theo đó, tia xạ được đưa vào bên trong cơ thể người bệnh bằng cách đưa phóng xạ vào trong hoặc tiếp giáp với khối u. Cách thức xạ trị được đưa ra tùy thuộc vào loại ung thư đang được điều trị và liệu các tế bào ung thư bạch cầu có di căn lên não và tủy sống hay không. Xạ trị ngoài được sử dụng để điều trị AML ở người trưởng thành.
Hóa trị với ghép tế bào gốc
Hóa trị được sử dụng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Các tế bào khỏe mạnh, bao gồm các tế bào tạo máu, cũng bị phá hủy bởi phương pháp hóa trị. Ghép tế bào gốc là một điều trị để thay thế các tế bào tạo máu. Tế bào gốc (tế bào máu chưa trưởng thành) được lấy ra khỏi máu hoặc tủy xương của bệnh nhân hoặc người hiến được đông lạnh và lưu trữ. Sau khi bệnh nhân hoàn thành hóa trị liệu, người ta sẽ làm rã đông các tế bào gốc được lưu trữ và trả lại cho bệnh nhân thông qua truyền dịch. Những tế bào gốc được tái sử dụng này phát triển thành các tế bào máu của cơ thể.
Điều trị bằng thuốc khác
Arsenic trioxide và all-trans retinoic acid (ATRA) là thuốc chống ung thư có tác dụng tiêu diệt tế bào bạch cầu ung thư, ngăn chặn các tế bào bệnh bạch cầu phân chia. Những loại thuốc này được sử dụng trong điều trị một loại AML được gọi là bệnh bạch cầu cấp tính tiên phát .
Các loại điều trị mới đang được thử nghiệm trong các thử nghiệm lâm sàng
Liệu pháp nhắm đích
Liệu pháp nhắm đích là một loại điều trị sử dụng thuốc hoặc các chất khác để xác định và tấn công các tế bào ung thư cụ thể mà không gây hại cho các tế bào bình thường. Liệu pháp kháng thể đơn dòng là một loại liệu pháp nhắm đích đang được nghiên cứu trong điều trị AML ở người trưởng thành.
Liệu pháp kháng thể đơn dòng
Là một phương pháp điều trị ung thư sử dụng các kháng thể được tạo ra trong phòng thí nghiệm từ một loại tế bào hệ thống miễn dịch . Những kháng thể này có thể xác định các chất trên tế bào ung thư hoặc các chất bình thường có thể giúp các tế bào ung thư phát triển. Các kháng thể gắn vào các chất và tiêu diệt các tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển của chúng hoặc giữ cho chúng không lan rộng. Kháng thể đơn dòng được dùng theo đường tiêm truyền. Chúng có thể được sử dụng một mình hoặc để mang thuốc, chất độc hoặc chất phóng xạ trực tiếp đến các tế bào ung thư.
Thử nghiệm lâm sàng
Đối với một số bệnh nhân, tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể là lựa chọn điều trị tốt nhất. Thử nghiệm lâm sàng là một phần của quá trình nghiên cứu ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng được thực hiện để tìm hiểu xem phương pháp điều trị ung thư mới có an toàn và hiệu quả hay tốt hơn so với điều trị chuẩn.
Nhiều phương pháp điều trị ung thư tiêu chuẩn ngày nay dựa trên các thử nghiệm lâm sàng trước đó. Bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng có thể được điều trị theo tiêu chuẩn hoặc là một trong những người đầu tiên được điều trị theo phương pháp mới.
Bệnh nhân tham gia thử nghiệm lâm sàng cũng giúp cải thiện cách điều trị ung thư trong tương lai. Ngay cả khi các thử nghiệm lâm sàng không dẫn đến các phương pháp điều trị mới hiệu quả, vẫn có những thông tin quan trọng sẽ thu nhận được và giúp tiến hành nghiên cứu trong tương lai
Bệnh nhân có thể tham gia các thử nghiệm lâm sàng trước, trong hoặc sau khi bắt đầu điều trị ung thư.
Một số thử nghiệm lâm sàng chỉ áp dụng cho những bệnh nhân chưa được điều trị. Các thử nghiệm khác điều trị cho những bệnh nhân bị ung thư không đỡ hơn. Cũng có những thử nghiệm lâm sàng thử nghiệm những cách mới để ngăn chặn ung thư tái phát hoặc giảm tác dụng phụ của điều trị ung thư. Tham gia vào thử nghiệm lâm sàng có thể cho cơ hội để thử các phương pháp điều trị mới nhất, nhưng nó không thể đảm bảo chữa bệnh. Thảo luận về các thử nghiệm lâm sàng có sẵn với bác sĩ và cẩn thận cân nhắc những lợi ích và rủi ro.
Điều trị bệnh bạch cầu cấp dòng tủy theo giai đọan
Một số xét nghiệm đã được thực hiện để chẩn đoán ung thư hoặc tìm ra giai đoạn ung thư có thể được lặp lại. Một số xét nghiệm sẽ được lặp lại để xem điều trị có hiệu quả như thế nào. Quyết định về việc có nên tiếp tục, thay đổi hoặc ngừng điều trị có thể dựa trên kết quả của các xét nghiệm này.
Một số xét nghiệm sẽ tiếp tục được thực hiện định kỳ sau khi điều trị kết thúc. Kết quả của các xét nghiệm này có thể cho thấy điều trị ung thư có hiệu quả hoặc ung thư đã tái phát (quay trở lại). Những xét nghiệm này đôi khi được gọi là xét nghiệm theo dõi hoặc kiểm tra.
Bệnh bạch cầu tủy cấp không điều trị
Điều trị tiêu chuẩn của bệnh bạch cầu dòng tủy cấp không điều trị ở người trưởng thành trong giai đoạn thuyên giảm phụ thuộc vào phân nhóm AML và có thể bao gồm:
- Hóa trị kết hợp.
- Hóa trị kết hợp liều cao.
- Hóa trị liệu liều thấp .
- Hóa trị nội sọ.
- All-trans retinoic acid (ATRA) cộng với Arsenic trioxide để điều trị bệnh bạch cầu cấp tính tiên phát (APL)
- ATRA với hóa trị liệu kết hợp sau đó là Arsenic trioxide để điều trị APL.
Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp thuyên giảm
Điều trị AML ở người trưởng thành trong giai đoạn thuyên giảm phụ thuộc vào phân nhóm AML và có thể bao gồm những điều sau đây:
- Hóa trị kết hợp.
- Hóa trị liệu liều cao, có hoặc không có xạ trị và ghép tế bào gốc bằng tế bào gốc của bệnh nhân.
- Hóa trị liệu liều cao và ghép tế bào gốc bằng cách sử dụng tế bào gốc của người hiến.
- Thử nghiệm lâm sàng về Arsenic trioxide.
Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tái phát
Không có điều trị tiêu chuẩn cho AML ở người trưởng thành tái phát. Điều trị phụ thuộc vào loại AML và có thể bao gồm những điều sau đây:
- Hóa trị kết hợp.
- Điều trị nhắm đích với các kháng thể đơn dòng.
- Ghép tế bào gốc bằng cách sử dụng tế bào gốc của bệnh nhân hoặc tế bào gốc của người hiến tặng .
- Điều trị bằng Arsenic trioxide.
- Thử nghiệm lâm sàng về liệu pháp Arsenic trioxide sau đó là ghép tế bào gốc .
Phòng tránh bệnh bạch cầu dòng tủy cấp
- Tránh tiếp xúc với hóa chất: Các loại hóa chất hư thuốc diệt cỏ, benzen.. là một trong những nguy cơ chính cho việc phát triển bệnh ung thư máu. Trong trường hợp bất khả kháng, cố gắng giảm thiểu thời gian tiếp xúc và mang đồ bảo hộ như găng tay, khẩu trang…
- Tránh tiếp xúc bức xạ: Bức xạ cũng có thể làm thay đổi các thành phần trong máu, vì vậy sẽ tốt hơn nếu giảm thiểu thời gian tiếp xúc với các tia nồng độ cao.
- Tập thể dục thường xuyên: Thể dục đã được chứng minh rằng có thể ngăn ngừa ung thư, và ung thư máu cũng không phải ngoại lệ. Nên tập thể dục ít nhất 30 phút mỗi ngày cho sức khỏe của bạn.
- Chế độ ăn uống hợp lý: Nên ăn ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau quả, đồng thời giảm thiểu tiêu thụ các chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa.